Đặc san báo Đuốc Thiêng - Chủ bút Mục sư Nguyễn Văn Bình

Lịch sử 100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn Văn Bình

Đuốc Thiêng 104, năm 2011


IV. Giai đoạn phát triển (1975-2011)

Đầu tháng 1-1975 chiến sự tại Việt Nam trở nên ác liệt, sau đó không lâu kéo theo cuộc di tản chết chóc tang thương chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, hàng chục ngàn người từ các tỉnh Cao nguyên và miền Trung đổ vào Nam tạm cư. Tới 30-4-1975, thì chiến tranh kết thúc, đất nước được thống nhất với tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hằng trăm gia đình giáo sĩ của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA) trước đó đã rời khỏi Việt Nam cho đến nay không thể quay trở lại. Hằng triệu người bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện, cả phi cơ, tàu bè lẫn vượt biển bằng những chiếc ghe nhỏ bé trên đại dương mênh mông, hay vượt biên qua các nước lân cận bằng đường bộ tìm đường tới nước thứ ba, trong số có khoảng 40 Mục sư, Truyền đạo và khoảng 1600 tín đồ. Nhiều tín hữu chết trên đường vượt biên di tản. Một số Mục sư, Truyền đạo và con cái Chúa ở lại đi học tập cải tạo trong các trại tập trung, một số chết trong khi cải tạo như Mục sư Nguyễn văn Năm, Mục sư Nguyễn văn Thắng thuộc ngành Tuyên úy Tin Lành. Đổi lại, một số sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong đó có cả tướng tá tin Chúa trong các trại cải tạo do tín hữu hoặc Mục sư, Truyền đạo cùng cảnh ngộ truyền bá Phúc âm cho họ. Một số khác tin Chúa sau khi đến các trại tị nạn ở Đông Nam Á hay đến các nước thứ ba. Hàng trăm Hội thánh lại được thành lập khắp các châu lục như Mỹ Châu, Âu Châu, Úc Châu và  Á Châu.

A. Hội thánh Miền Nam

Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) giai đoạn từ năm 1975 đến 2011 phải đối diện với muôn ngàn khó khăn về nhân lực, nhiều nhà thờ và cơ sở bệnh viện, trường học bị mất mát, Thánh Kinh Thần Học Viện cũng bị đóng cửa suốt 27 năm (1976-2003) khiến nguồn nhân lực cho sự lãnh đạo Hội thánh bị gián đoạn lâu dài. Tín đồ thì bơ vơ đói nghèo, túng thiếu bởi chế độ bao cấp. Số Hội thánh còn lại thì cố gắng duy trì trong nội bộ. Việc truyền giảng Tin Lành cho đồng bào bị hạn chế chỉ trong nhà thờ mà thôi, mọi hình thức chứng đạo cá nhân đều bị nghiêm cấm. Hai địa hạt ở  miền Cao nguyên của người sắc tộc hầu như bị tan rã. Nhiều Mục sư, Truyền đạo phải tự lực cánh sinh bằng mọi phương cách có thể được nhằm duy trì Hội thánh như làm ruộng, bán nước mía, có Mục sư còn đi buôn bán heo con ở chợ tạm sống qua ngày để phục vụ Chúa, vì không còn có sự trợ giúp nào khác. Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 41 tổ chức tại Sàigòn từ ngày 15-17 tháng 6 năm 1975 diễn ra trong bầu không khí ngột ngạt, lo sợ một tương lai mù mịt cho Hội thánh. Một năm sau, cũng tại Sàigòn, từ ngày 13-15 tháng 6 năm 1976, Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 42 đã bầu Mục sư Ông văn Huyên làm Hội trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (1976-1999), và Mục sư Đoàn văn Miêng giữ chức Phó hội trưởng, và kể từ đó, suốt 25 năm sau mới được phép tổ chức Hội Đồng Tổng Liên Hội một lần nữa. Đa số các Chủ Nhiệm Địa Hạt lần lượt qua đời hay hưu hạ, chỉ còn Phó Chủ Nhiệm hoặc Thư ký Địa hạt kiêm nhiệm mà thôi, trong khi Mục sư Hội trưởng Ông văn Huyên già yếu, lại bị mù mắt, lãnh đạo một Hội thánh trong giai đoạn cực kỳ khó khăn gian khổ lâu dài như thế không phải là một việc dễ dàng. Kinh thánh, Thánh ca và sách báo không được phép in ấn hoặc lưu hành. Cái gì còn lại thì cố gắng gìn giữ để duy trì công việc Chúa.

Thế nhưng Đức Chúa Trời ban sự khôn ngoan, can đảm, đức hy sinh chịu khổ, sự kiên trì chịu đựng cho các nhà lãnh đạo Hội thánh để gìn giữ và phát triển Hội thánh. Hội thánh Trần Cao Vân và Hội thánh An Đông bùng lên một thời gian trước khi bị đóng cửa vĩnh viễn đã đem nhiều linh hồn trở về với Chúa và gây dựng đời sống tâm linh cho con dân Ngài. Các Hội thánh nào không bị đóng cửa trở thành đông đúc tín đồ hơn. Con cái Chúa tìm về nơi nhà Chúa để ẩn mình «trong bóng cánh che chở toàn năng của Ngài» Số người tin Chúa gia tăng đáng kể, hầu như tuần nào cũng có người thêm vào Hội thánh. Máu của những người tử đạo cùng những cơn bắt bớ dưới sự cai trị của Chúa luôn gặt hái những kết quả mà lịch sử Hội thánh xưa còn để lại bằng chứng. Chúa dùng hoàn cảnh khó khăn nầy đưa dắt hằng ngàn, hàng trăm ngàn người tìm về ơn cứu rỗi của Chúa. Hội thánh từ vài chục người trước đây bây giờ tăng thêm lên hàng trăm người, nhiều Hội thánh đông đúc đến vài ba ngàn tín đồ, phải chia ra làm hai hay ba suất để thờ phượng Chúa là điều không thể thấy trước năm 1975. Nhiều Hội thánh không chỉ thờ phượng Chúa trong ngày Chúa nhựt mà hầu như mỗi ngày, ngày nào cũng có sự thờ phượng Chúa của các ban ngành hoặc truyền giảng cho đồng bào. «Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ... Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội thánh» (Công 2:46-47).

Theo thời gian, thời bao cấp được thay thế bằng thời kỳ đổi mới. Hội thánh có phần dễ thở hơn. Năm 1992-1994, chính quyền cho phép Hội thánh nhập cảng 33.000 cuốn Kinh thánh và 2.000 cuốn thánh ca cung ứng phần nào cho nhu cầu cấp bách của Hội thánh. Từ năm 1994-2000, Chúa dùng Mục sư Lê Cao Quý xin phép chính quyền in 85.000 quyển Kinh thánh Tân Cựu ước, 65.000 Tân ước, 80.000 sách Tin Lành, 120.000 chuyện tích Kinh thánh và 25.000 quyển thánh ca. Với sự trợ giúp của Hội ICM Hoa kỳ và Hội thánh Đại Hàn, hàng trăm ngôi nhà thờ cũ kỷ, sắp hư sập được xây cất rộng lớn, kiên cố hơn, đáp ứng cho sự thờ phượng của tín hữu. Gần đây, Ban tôn Giáo Chính phủ còn cấp phép in ấn hàng trăm quyển sách nghiên cứu, bồi linh cho con dân Chúa. Công cuộc truyền giảng thỉnh thoảng cũng được chính phủ cho phép giảng ngoài trời, nơi sân thể thao, thu hút rất nhiều người, hằng ngàn người, thậm chí có hàng chục ngàn người tin Chúa. Ban Y tế Xã Hội của Tổng Liên Hội với ngân sách khá lớn do con cái Chúa khắp nơi dâng hiến thường xuyên tổ chức thăm viếng, khám bệnh và phát thuốc cho rất nhiều nơi trong nước. Ngoài việc cứu trợ nạn nhân bão lụt hầu như xảy ra hằng năm, Ủy ban còn giúp đỡ người nghèo, an ủi kẻ cô đơn, cô nhi quả phụ, đặc biệt còn xây hàng trăm nhà tình thương cho họ. Những lời giảng bằng hành động cao quý nầy tạo được thiện cảm và sự quan tâm của đồng bào.

Một năm sau ngày Mục sư Hội trưởng Ông văn Huyên qua đời (1999), ngày 16-3-2000, theo nghị định số 15-QĐ/TGCP, Ban Tôn Giáo Chính Phủ cấp Tư cách Pháp Nhân cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) và năm 2001, chính phủ chấp thuận cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) tổ chức Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 2 (tính từ ngày sáng lập là lần thứ 43) từ ngày 7-9 tháng 2 năm 2001 tại nhà thờ Tin Lành Sàigòn. Một bản Hiến Chương của Hội thánh được thông qua đem ra áp dụng, với hệ thống tổ chức gồm Tổng Liên Hội và Chi hội, hủy bỏ hệ thống Địa Hạt, thay vào đó mỗi tỉnh có Ban Đại Diện, và Mục sư Phạm Xuân Thiều đắc cử Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam với nhiệm kỳ 4 năm (2001-2005). Song vì bất ngờ Mục sư Phạm Xuân Thiều qua đời, Mục sư Dương Thạnh, đệ nhất Phó Hội trưởng trở thành Quyền Hội trưởng cho tới mãn nhiệm kỳ. Và từ năm 2005 đến nay, trải qua hai kỳ Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 3 và 4 (lần thứ 44,45 của Hội thánh kể từ khi thành lập) Mục sư Thái Phước Trường liên tiếp giữ chức vụ Hội trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) với một Ban Thường Trực gồm 7 người ra riêng chuyên lo điều hành công việc Chúa cùng sự cộng tác của 16 Ủy viên khác. Khởi từ năm 2003, chính phủ cho phép Hội thánh Tin Lành Việt Nam mở lại Thánh Kinh Thần Học Viện, chiêu sinh lần đầu 50 sinh viên và cứ 2 năm được phép chiêu sinh một lần với số sinh viên tăng lên 100. Thần học viện không còn cơ sở, phải mượn một tầng lầu của nhà thờ Sàigòn tạm làm nơi giảng dạy cho sinh viên. Còn cư xá thì dùng cơ sở của Hội thánh An Đông xưa. Hiện nay, Thần học viện đang xây cất cơ sở đầy đủ tiện nghi tại quận 2 Sàigòn, dù chưa hoàn tất, nhưng bắt đầu niên khóa 2010-2011, Viện Thần học đã chuyển về giảng dạy tại đây. Chúa dùng Viện Thần học đào tạo người chăn bầy cho nhà Chúa, đáp ứng được nhu cầu cho các Hội thánh hiện đang thiếu người chăm sóc và truyền giảng. Nhiều chi hội mới được thành lập. Nhiều nhà thờ nguy nga được xây dựng. Sự phát triển mỗi ngày một lớn rộng thêm lên.

« Việc Chúa Làm » thật lạ lùng. Không ai ngờ được trong hoàn cảnh khó khăn, bị hạn chế đủ mọi mặt như thế mà Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) lại phát triển thật lớn rộng và vững mạnh. Từ con số 146.089 tín hữu vào năm 1975, đến nay, trải qua 26 năm, lên tới con số 1.000.000 (1 triệu) tín đồ nam phụ lão ấu, tăng gấp 7 lần, với 800 Mục sư, Truyền đạo và nữ Truyền đạo phục vụ Chúa trên hơn 2.000 chi hội và điểm nhóm (chi hội nhánh) suốt từ Quảng Trị tới Cà Mau. Quả là «việc Chúa làm», thật là một «phép lạ» mà Chúa ban cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam).

B. Hội thánh Miền Bắc

Trong khi Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) phát triển lạ lùng, thì Tổng Hội Tin Lành Việt Nam Miền Bắc, dù có Tư cách pháp nhân từ năm 1963, có điều lệ riêng chỉ đạo và điều hành, song sự phát triển rất chậm. Nếu năm 1975, số tín đồ khoảng 5.000, thì nay số tín đồ người Kinh cũng vào khoảng 6.500 người, với 14 nhà thờ và 14 Mục sư và giảng sư (Truyền đạo). Hội thánh không có một trường Thần học nào đào tạo người hầu việc Chúa. Từ năm 1954 tới nay, Hội thánh Miền Bắc chỉ mở hai khóa dạy thần học: Năm 1962-1964 khóa đầu tiên với 10 sinh viên, học từ 3 tới 4 tháng mỗi năm. Từ  năm 1988 đến năm 1993, được mở khóa thứ 2 với 15 học viên, trong số có 10 khóa sinh chính thức và 5 khóa sinh dự thính, dưới sự điều hành của Mục sư Bùi Hoành Thử, Phó Hội trưởng, kiêm Tổng Thư ký Hội thánh Miền Bắc và hai Mục sư Nguyễn Hậu Nhương và Mục sư Phạm Xuân Thiều được mời từ Miền Nam ra giảng huấn. Mấy năm gần đây, Tổng Hội Miền Bắc bắt đầu gởi một ít sinh viên vào học tại Thần Học Viện ở Miền Nam. Dù đất nước thống nhất từ năm 1975, nhưng tiếc thay, hai giáo Hội Tin Lành Việt Nam Miền Bắc và Miền Nam vẫn chưa hiệp nhất. Một Hội thánh ít ỏi, thiếu mọi phương tiện truyền giáo, nếu sẵn lòng hiệp nhất với Hội thánh Miền Nam, có lẽ sẽ thoát khỏi sự trì trệ, trái lại sẽ phát triển nhanh hơn. Nhiều lần hai Hội thánh Nam Bắc ngồi lại với nhau tìm phương án hiệp nhất, song đến nay vẫn chưa thực hiện được. Đó là điều đáng tiếc. Từ ngày 23-25 tháng 2 năm 2009, Đại Hội Đồng lần thứ 33 của Hội thánh Tin Lành Miền Bắc họp tại Nhà thờ Tin Lành Hoành Nhị (Nam Định) với 250 đại biểu, đã bầu Mục sư Nguyễn Hữu Mạc trong chức vụ Hội trưởng, lãnh đạo Hội thánh Miền Bắc cùng với Mục sư Phùng Quang Huyến (Phó Hội trưởng), Mục sư Bùi văn Sản (Tổng Thư ký, Mục sư Nguyễn Đức Đồng (Tổng Thủ quỹ) và Mục sư Hoàng Đức Luân (Ủy viên thường trực). Mong sao Tân Ban Thường vụ nhiệm kỳ 2009-2013 nầy được Chúa ban cho có đường hướng tích cực trong việc phát triển Hội thánh.

Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã làm những điều kỳ diệu cho Hội thánh Tin Lành Miền Bắc. Cách nay hàng chục năm, hai dân tộc H’Mong và Dao ở miền núi phía Bắc nghe được các buổi phát thanh truyền giảng trên làn sóng điện của đài Nguồn Sống, phát đi từ Manila (Phi luật tân) đã đồng loạt tự động tiếp nhận Chúa. Trong số có hơn 100.000 người H’Mong với tên gọi «Vàng Chữ» và mấy chục ngàn người Dao với tên gọi «Thìn Hùng», sống ở vùng núi Lào Cai, Yên Bái, Hoàng Liên sơn và một vài nơi khác nữa. Con số người tin Chúa của các dân tộc ít người Miền Bắc theo ước tính có từ khoảng 150.000 đến 200.000 người. Họ đã tìm đến nhà thờ Hà Nội xin Kinh thánh và một số được huấn luyện về chăm sóc người dân tộc mình. Đại Hội Đồng Miền Bắc (2009) vừa qua, trong số 250 đại biểu về Hội thánh Hoành Nhị phó hội, có đến 130 đại biểu của hai dân tộc H’Mong và Dao nầy. Họ có 981 điểm nhóm với 981 quản nhiệm, và hàng ngàn điểm nhóm khác nữa, do Giáo sư Lý Tiến Lưu lãnh đạo tổng quát. Và như vậy, cả Miền Bắc vừa tín đồ người Kinh lẫn tín đồ các dân tộc ít người, tất cả khoảng 200.000 người. Thật là một phép lạ.

C. Hội thánh Tư gia

Ngoài Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam),Tổng Hội Tin Lành Việt Nam (Miền Bắc) và một số hệ phái đã có Hội thánh trước năm 1975, ở Việt Nam còn có khoảng 50 hệ phái Tin Lành khác nữa, được gọi là “Hội thánh tư gia” hoạt động từ Bắc chí Nam như: Liên Hữu Cơ Đốc (MS Đinh Thiên Tứ), Mennonite (MS Nguyễn Quang Trung), Báp Tít Ân Điển (MS Lê Quốc Chánh), Báp Tít Nam Phương (MS Nguyễn Thông), Ngũ Tuần, Giám Lý, Trưởng Lão, Giám Nhiệm, Độc Lập... Mỗi hệ phái lại chia ra nhiều nhóm phái khác nhau, rất khó để biết số tín đồ là bao nhiêu. Chưa có bảng thống kê tín đồ nào của các hệ phái tư gia cách chính thức. Người ta chỉ đoán chừng thôi. Tỉ như Hội thánh Liên Hữu Cơ Đốc của Mục sư Đinh Thiên Tứ, nói có 1.500 điểm nhóm tư gia với 30.000 tín đồ. Như vậy, những Hội thánh Tư gia lớn nhất khác thì cũng chỉ vài chục ngàn tín đồ thôi. Tính chung theo người ta nghĩ, có chừng 200.000 tín đồ thuộc các Hội thánh tư gia tại Việt Nam hiện nay, có người lại phỏng chừng con số tín đồ tư gia lên đến gần 500.000  người. Một số Hội thánh tư gia được chính phủ cho phép hoạt động, được tổ chức Hội Đồng lần đầu tiên ra mắt, nhưng một số khác thì vẫn còn hoạt động thầm lặng.

D. Hội thánh hải ngoại

Từ năm 1975 đến năm 2011, Hội thánh Tin Lành Việt Nam chẳng những phát triển ở trong nước mà còn mở mang ra hải ngoại nữa. Sau năm 1975, Mục sư, Truyền đạo cùng các tín hữu di tản hoặc đi làm việc hầu như khắp nơi trên thế giới. Nơi nào họ tới, với lòng kính yêu  thờ phượng Chúa, với lòng nóng cháy truyền bá Phúc Âm cứu rỗi của Chúa cho đồng hương, nên tới đâu họ cũng cùng nhau hiệp lại thành lập Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Tại Hoa kỳ, tại Gia Nã Đại, tại Pháp, Đức, Bỉ, Hòa Lan, Thuỵ sĩ, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Anh quốc, Tiệp Khắc, Hung Gia lợi, Nga, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Tân Gia Ba, Cam Bốt, Đại Hàn, Mã Lai Á... mỗi nơi đều có Hội thánh Tin Lành Việt Nam với nhiều hệ phái khác nhau. Nhiều nơi thành lập được Tổng Hội hay Giáo Hạt, có ngân sách tự trị, có ban truyền giáo, báo chí, văn phẩm, có truyền giảng trên đài Radio và truyền hình, có trường thần học đào tạo người phục vụ Chúa cùng nhiều mục vụ hoặc ban ngành khác chẳng những đáp ứng nhu cầu sở tại mà còn giúp đỡ cho Hội thánh Tin Lành tại Việt Nam nữa. Hội thánh hải ngoại có 5 trường Thần học gồm: Viện Thánh Kinh Thần học của Giáo Hạt CMA Việt Nam ở California (Hoa kỳ), Viện Thần Học liên hệ phái ở California (Hoa kỳ), Viện Thần Học của Giáo Hội Báp Tít Việt Nam ở Dallas (Hoa kỳ), Viện Thần Học của CMA Việt Nam Thế giới , có trụ sở ở California (Hoa kỳ), Viện Thần Học Tin Lành Việt Nam Âu Châu (Đức). Bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống, thì đều có người đến giảng Tin Lành thành lập Hội thánh.

Tính chung các hệ phái, tại Hoa kỳ có chừng 380 Hội thánh Việt Nam. Hệ phái Phước Âm Liên Hiệp có 100 Hôi thánh, tín hữu khoảng 13300 người. Hệ phái Báp Tít có khoảng 145 Hội thánh, tín hữu vào khoảng 12000 người. Ở Canada (Gia nã đại) có khoảng 40 Hội thánh, chỉ riêng hệ phái Phước Âm Liên Hiệp có 2900 tín hữu, nếu tín luôn các hệ phái khác, con số vào khoảng 4000 người. Ở Âu Châu có 42 Hội thánh, khoảng 3000 tín đồ, ở Úc Châu có khoảng hơn 50 Hội thánh với 5500 tín hữu, ở Á Châu có chừng vài chục Hội thánh, tập trung nhiều nhất ở Campuchia, số con cái Chúa toàn Châu Á chừng khoảng hơn ngàn người. Tổng cộng ở hải ngoại có khoảng 517 Hội thánh với số tín hữu ước chừng 50.000 người, có khoảng 600 Mục sư, Truyền đạo vừa quản nhiệm Hội thánh vừa ở trong các ban ngành và các mục vụ khác nhau.

Nhìn chung, giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2011, dù trong hoàn cảnh còn khó khăn hơn so với các thời kỳ chiến tranh của các giai đoạn trước, nhưng đây lại là giai đoạn mà Hội thánh Tin Lành Việt Nam phát triển lớn mạnh nhất, chẳng những ở trong nước mà Tin Lành còn tràn lan ra hầu khắp các châu lục ở hải ngoại nữa.

V. Kết Luận

Một trăm năm Tin Lành Việt Nam, chỉ một đời người ngắn ngủi, thế mà Hội thánh đã có khoảng 2.000.000 tín hữu, hơn 5.000 chi hội và điểm nhóm (Hội thánh nhánh) được thành lập ở Việt Nam và hải ngoại, hàng mấy ngàn Mục sư, Truyền đạo được Chúa dấy lên để lãnh đạo Hội thánh cùng truyền bá Phúc âm của Chúa cho người Việt Nam. 

Phật giáo truyền bá vào Việt Nam đến nay hơn 2.000 năm, nếu tính số người tự nhận mình là Phật giáo, con số có thể lên tới 60 đến 70% dân số Việt Nam. Nhưng nếu tính theo số người  “quy y tam bảo” chính thức gia nhập đạo, theo một tài liệu thì cho đến nay chỉ có khoảng 7.620.830 người.

Lão giáo và Khổng giáo truyền vào Việt Nam cũng hơn 2.000 năm, nhưng tới nay dường như không còn tín đồ nào, nếu có thì rất ít.

Công giáo La Mã truyền bá vào Việt Nam từ thế kỷ 16, cách nay khoảng 400 năm, hiện có chừng 8.000.000 tín đồ, trung bình 100 năm có được 2.000.000 tín đồ.

Lạ lùng thay, Tin Lành Việt Nam vừa tròn 100 năm, mà đã gần tới con số 2.000.000 tín đồ rồi. Đó là “Việc Chúa Làm” và đó chính là tình yêu và phép lạ mà Chúa ban cho dân tộc Việt Nam.

-----------------------------
Viết theo tài liệu:

1. Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam của Mục sư Lê Hoàng Phu.
2. Internet: Hoithanh.com, bài của Nguyễn Sinh
3. Bước đầu tìm hiểu Đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam, của Nguyễn Thanh Xuân (Lưu hành nội bộ).
4.Bốn mươi sáu năm trong chức vụ, của Mục sư Lê văn Thái.
5.41 năm hầu việc Chúa với HTTL Việt Nam, của giáo sĩ Irving R Stebbins.
6. Dâng trọn cuộc đời, của Mục sư Phạm văn Năm.
7. Niên giám năm 2010-2011 của Liên Hữu Tin Lành thế giới.
8. Việt Nam Pháp thuộc sử (1862-1945) của Phan Khoang.
9. Báo chí đủ loại.



Đuốc Thiêng 104

01 Khắc phụng bản năng - ĐTPÂ
02 Hãy cảm tạ Chúa - Mục sư Nguyễn Văn Bình
03 Thơ: Kỷ niệm 100 năm Tin Lành Việt Nam - Trần Nguyên Lam Bửu
04 Lịch sử 100 năm Tin Lành Việt Nam (1/4) - Mục sư Nguyễn Văn Bình
05 Thơ: 100 năm kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam - Đức Huy
06 Lịch sử 100 năm Tin Lành Việt Nam (2/4) - Mục sư Trần Hữu Thành
07 Thơ: Tạ ơn Chúa 100 năm Tin Lành đến Việt Nam - Đức Huy
08 Lịch sử 100 năm Tin Lành Việt Nam (3/4) - Mục sư Nguyễn Văn Bình
09 Người nữ khôn ngoan - Bà MS Nguyễn Văn Bình
10 Lịch sử 100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn Văn Bình
11 Nỗi lòng người đầy tớ Chúa - Bà Lê Văn Bắc
12 Một trăm năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu Thành
13 Thử hình dung con tàu Nôê của những ngày sắp đến - Dr Trương Hoàng Lâm
14 Tin Tức - Vinh Bằng
15 Thơ: Không tiếc, mãi yêu - Võ Chánh Tiết