TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Tác-giả: Roger
CARATINI
Sách: Jesus, de Bethléem à Golgotha,
ấn bản 2003, nhà xuất bản L'Archipel, Paris
Trích dịch: Mai Đào
(Xem từ Đuốc Thiêng 86)
Đuốc Thiêng 98, tháng 12 năm 2008
Báo cáo lên hoàng
đế.
Cuối năm 750 (lịch Rô ma), hoàng đế Auguste triệu
Marcellus về Rome, và tới nơi, Marcellus đưa báo
cáo. Báo cáo trước hết vê
tình hình nóng bỏng ở xứ
Judée, cả về hai mặt chính-trị và
tôn giáo, từ ngày vua mới Archelaus
lên cầm quyền. Tiếp theo, bên lề báo
cáo là chuyện vui về một con trẻ kỳ diệu
đã làm xôn xao dân
chúng ở Jerusalem, phần vì điều kiện sanh lạ đời,
-sanh bởi một cô gái đồng trinh-, phần
vì những "phép lạ" con trẻ đã
làm.
Hoàng đế nghe rồi phá lên cười: "Hay
lắm, hay lắm, kể thêm nữa ta nghe về con trẻ đó,
để ta được thay đổi cái đầu, suốt năm cứ phải nghe
báo cáo từ các tổng
trấn,các toàn quyền, anh thì xin lập
thêm thuế mới, anh thì xin thêm
quân lính, ôi chao. Nào, kể
đi".
Hoàng đế lim dim mắt ngồi nghe những chuyện do Matthias
thuật lại, nào chuyện rồng ở trong hang, chuyện
cây dừa cúi xuống cho Marie hái, v.v.
rồi Marcellus kể thêm vài chuyện do
chính Joseph kể khi mình đến thẩm vấn ở
Ga-li-lê:
-Lúc ra đi, bước vào sa mạc dẫn từ bờ biển xứ
Judée đến xứ Egypte, Joseph tính rằng sẽ đi thật
xa, càng xa càng tốt, nên y đi
vào thật sâu trong sa mạc, từ làng
này qua làng khác, chẳng ngủ nơi
nào quá một đêm.Tới một làng
gần đường đi Hérapolis, làng này
có một đền thờ. Và cũng như hầu hết mọi
làng ở Egypte, quản lý đền thờ này
là một thầy tế lễ khá khôn ngoan quỷ
quyệt..
-Này Marcellus, ở Đông phương, thầy tế lễ
nào cũng quỷ quyệt hết. Phải kêu chúng
là kẻ cắp, kẻ cướp, cả trong xứ Egypte, cả trong xứ
Judée. Nào, anh tế lễ này sắp đặt
chuyện lừa đảo ra sao?
-Thưa hoàng đế, dân trong làng,
và trong cả vùng nữa, tin lời y nói
rằng trong những tượng thần khổng lồ ở đền thờ, có một con
quỷ nhập vào. Con quỷ này truyền cho y những mạng
lịnh và ý muốn của nó.
-Ta đánh cuộc với anh, rằng những yêu cầu của con
quỷ, là phải nộp tiền, nộp cúng cho
nó, nếu không thì tai hoạ lớn sẽ xẩy
ra.
Phép lạ trên con thầy tế lễ.
-Dạ đúng thế. Có điều kỳ quặc, là thầy
tế lễ này có đứa con trai 3 tuổi.Suốt
ngày, nó nói những câu chẳng
đâu vào đâu, rồi hễ có ai la
nó, thì nó cổi quần áo ra
hết, lăn trên đất, ném đá
vào người qua lại gần đền thờ, một ngày bốn năm
lần, thành ra dân chúng ngán
đem lễ đem cúng đến đền thờ.
-Ha ha, ngồi đây ta cũng đoán ra vẻ mặt của anh tế
lễ này. Vì con nó lên kinh
mà thâu nhập nó giảm sút.
-Một bữa kia, khi đứa nhỏ này đang lên kinh,
thì vừa lúc Joseph, Marie và con đi
ngang đền thờ. Họ cũng bị đứa nhỏ ném đá. Marie
sợ đá trúng con mình, bèn
lấy khăn phủ lên mình con.
-Rồi sao?
-Đứa con thầy tế lễ giựt cái khăn ra, trùm
lên đầu mình, thì cơn kinh hết ngay lập
tức, đứa con hoàn toàn trở lại bình
thường. Thầy tế lễ hoan hô phép lạ, đem
cái khăn đặt bên tượng thần.
-Ta đoán được vì sao. Anh tế lễ này
bảo mọi người là hãy rờ vào khăn để
được phước, và muốn rờ vào, phải cúng
tiền. Quả là thằng kẻ cướp. Còn bố mẹ đứa con mới
sanh có được nó chia chác
gì không?
-Thưa không. Họ thật thà lắm, chồng là
thợ mộc già, vợ là gái trẻ đồng trinh
hay thẹn, họ đặt tên con là "Jesus", theo
ngôn ngữ Hê–bơ–rơ, Jesus nghĩa
là Đấng Cứu chuộc. Họ nhứt quyết rằng đứa nhỏ này
là con của Đức Giê hô va,
Chúa duy nhứt của họ; và đứa nhỏ này
sẽ cứu nhân loại khỏi tội lỗi.
-Cứu nhân loại là công tác
vô cùng vĩ đại, mà đây lại
chỉ có mỗi một vị bất tử ra tay. Chúng ta
đây có cả mấy chục thần, mà
có đủ đâu nào. Còn chuyện dỗ
trẻ con nào nữa, kể ta nghe.
-Thưa hoàng đế, đấy đâu phải là chuyện
ngụ ngôn bịa đặt. Những điều tôi báo
cáo, chính tôi đã đi kiểm
chứng từng chỗ. Ngày sau đó, Joseph đến
môt làng khác. Nơi đây
có một phụ nữ, người ta nói là bị quỷ
ám. Quỷ không cho phụ nữ này mặc quần
áo, không cho ở trong nhà, bắt
ngày đêm đi ở nghĩa địa, đứng trước các
đền thờ, đứng ở ngã ba, ngã tư, ném
đá vào người đi đường. Khi Marie mẹ của Jesus
đến, thấy vậy, động lòng thương, nắm tay phụ nữ
này thì quỷ liền ra khỏi. Sau đó đến
một làng khác, tôi không nhớ
tên làng, trong làng đang có
lễ cưới, mọi người vui vẻ, thì chợt có tai hoạ.
Lý do là có một bọn thầy
pháp không được mời đến dự lễ cưới, họ gieo vạ cho
cô dâu, đột nhiên cô
dâu thành câm và điếc, phải
nằm liệt giường. Khi Marie vào trong phòng
cô này, mùi thơm từ thân
Marie thấm vào cô dâu, cô
này đột nhiên lành hết câm
hết điếc, đứng lên hát một bài ca ngợi
Đức Chúa Trời. Thưa hoàng đế, chưa hết..
-Ta đoán là anh sẽ kể đến những người
cùi (hủi).
-Thưa hoàng đế, đúng thế, nhưng sao
hoàng đế nói trúng?
-Bởi vì đây là chuyện chuyên
môn đặc biệt của các thầy pháp
bên Đông phương. Họ đuổi quỷ, chữa người
mù sáng mắt, chữa người bại đi đứng được, chữa
lành người cùi, nhiều người nói thế,
nhưng ta, ta cho rằng họ diễn trò. Khi ta còn cai
trị ở Egypte, ta đã đem treo cổ một anh thầy thuốc dởm.
Này Marcellus, anh đừng làm như những bọn người
Đông phương, họ nhìn đâu cũng thấy quyền
phép siêu nhiên.
Lý thuyết về vũ trụ
Marcellus không chịu, vì tuy cũng đồng
ý với hoàng đế là không tin
chuyện quyền phép siêu nhiên, nhưng nghĩ
rằng những vụ chữa lành kỳ lạ kia phải có một
nguyên nhân hợp lý, mà hiện
nay người ta chưa biết. Y trình bầy quan điểm của
mình.
-Thưa hoàng đế, khi có nguyệt thực xẩy ra,
thì xưa kia hầu hết mọi người kể cả vua chuá, đều
cho rằng đây là hành động của một quyền
lực vô hình, hoặc là do một con rồng
thổi tắt mặt trăng, v.v. Kế sau, các chiêm tinh
gia khôn ngoan đã đưa ra những giả thuyết mới,
không dựa vào các quyền lực
siêu nhiên; hồi còn trẻ hoàng
đế cũng như tôi đã học hết mọi lý
thuyết ấy rồi có phải không ?
-Ờ, ờ, ta nhớ ra rồi. Hồi đó ta thích nhứt
là lý thuyết của học giả Anaximandre, gốc ở
Milet, vùng Tiểu-Á, đưa ra cách
đây 5 hay 6 thế kỷ. Theo lý thuyết này,
thì Trái Đất bay trong không gian,
chẳng có gì chống đỡ, ở vòng
ngoài trái đất là nhiều
bánh xe rỗng, bên trong chứa đầy lửa,
chúng bay vòng quanh trái đất. Vỏ
ngoài bánh xe này có nhiều
lỗ thủng, ánh lửa ở trong chiếu ra không gian qua
những lỗ thủng này, người ở trái đất
nhìn lên thấy toàn là dĩa
tròn, kêu dĩa nhỏ là sao, dĩa lớn
là mặt trăng, mặt trời. Khi lỗ lửa bị bít,
thì có nhật thực, nguyệt thực, bị bít
hết thì là nhật nguyệt thực toàn phần,
và không phải là toàn phần
nếu chỉ bị bít một ít thôi.
-Thưa hoàng đế, tôi không biết
gì về lý thuyết này, nhưng nghe thiệt
là hấp dẫn.
-Thế mà có nhiều người tin đấy, cho đến khi
có các chiêm tinh gia suy nghĩ về
giáo -thuyết Pythagore, cả quyết rằng mặt trời và
mặt trăng là những trái cầu đầy lửa xoay quanh
trái đất, khi nào một trái cầu ấy đứng
chen giữa trái đất và trái cầu kia,
thì có nhật thực hay nguyệt thực.
-Thưa hoàng đế, tôi cũng học như thế, khi đọc
sách của Platon. Tôi cũng nghĩ như Platon, rằng
con người càng ngày càng hiểu biết
rành rẽ hơn, rồi sẽ đưa những lý thuyết
sát nút hơn, cho đến khi vũ trụ chẳng
còn bí mật nào nữa đối với
loài người.
-Đúng thế, con người sẽ mỗi ngày một biết nhiều
hơn, kỹ hơn. Rồi đây các bịnh tật, các
vụ điên khùng, và cả sự chết nữa đều sẽ
theo hướng đó. Và cũng vì thế
mà cách đây 25 năm, ta cho
đóng đinh một người Arménie tự xưng là
thầy pháp, anh này khoác
lác rằng chữa lành được bịnh cùi, chỉ
cần anh ta rờ vào da.
-Thưa hoàng đế, chỉ khoác lác
thôi mà sao bị phạt nặng như thế?
-Ta chẳng khi nào phạt nặng mà thấy vui trong
lòng. Ta bắt buộc phải phạt nó, để làm
gương, và để bảo vê quân binh của ta.
Có một binh sĩ bị ngứa ngáy chân tay,
anh thầy pháp này đến chữa, trước hết anh ta rờ
toàn thân một người cùi, rồi sau
đó dùng tay mình thoa lên
tay và chân binh sĩ kia, làm binh sĩ ấy
bị mắc bịnh cùi. Nếu không đóng đinh
nó, thì nó sẽ làm cho hết
cả đoàn quân bị cùi. Nhưng
thôi, trở lại chuyện phép lạ, anh còn
chuyện nào nữa về đứa trẻ sơ sanh mà
là Cứu Chúa kia?
-Thưa hoàng đế, còn chuyện thiệt hay, nhưng hơi
dài.
-Thời gian của ta cũng như vũ trụ, nằm trong tay ta, cứ kể đi.
Jesus chữa lành người cùi.
-Thưa hoàng đế, tôi bắt đầu bằng chuyện chữa
lành một phụ nữ cùi, như hoàng đế
đã đoán. Gia đình Joseph đi đến một
làng nọ, Marie muốn tắm cho đứa trẻ. Họ gặp một
bà làm nghề giặt mướn nơi phố chợ, thấy
bà này đang coi một chậu lớn đầy nước
và quần áo.Marie ngỏ ý muốn mượn
cái chậu để tắm cho con. Bà này, ta
tạm kêu là bà Hai, thấy Marie
có vẻ mệt, bèn bảo Marie: "Chị ngồi nghỉ mệt đi,
để tôi giúp chị, tôi sẽ đổ nước thơm
vào chậu này tắm cho con chị". Bà Hai
tắm đứa nhỏ xong, trao đứa nhỏ lại cho Marie, nhưng chậu nước
còn để đó, chưa đổ đi. Một thiếu nữ lại gần,
trên mình đầy vết trắng bịnh cùi.
Nó vô tắm trong chậu nước thơm còn dư,
bao nhiêu vết trắng bịnh cùi tiêu tan
hết, da nó trở nên hồng hào, hết bịnh.
Dân chúng ở chợ thấy vậy, hô
lên rằng Joseph và con trai là thần
thánh, không phải người thường, chỉ cần
có mặt là chữa được cô gái
kia.
Thưa hoàng đế, phần tiếp theo còn ly kỳ hơn nữa.
Sau đó, Joseph và gia đình
cùng với các người hầu lên đường đi
tiếp. Cô gái được chữa lành, ta tạm
kêu là cô Ba, xin đi theo hầu hạ để tỏ
lòng biết ơn, được Joseph chấp thuận. Chiều lại, họ đến một
lâu đài của một lãnh-tụ người Egypte.
Ông này tiếp họ, cho họ ngủ nơi ngôi
nhà dành cho khách quý. Dọn
chỗ nằm xong xuôi, cô Ba đến chào
bà chủ nhà nơi phòng của
bà, thấy bà này đang khóc,
liền hỏi nguyên do. Bà chủ trả lời rằng nỗi rầu
của mình quá lớn, lớn đến nỗi chẳng muốn kể.
Cô Ba nói rằng cứ kể ra đi, biết đâu
có thể giúp bà. Nói đi
nói lại chập lâu, bà chủ
nói: "Tôi kể ra, nhưng em giữ kín
nhé, đừng kể lại cho ai hay. Ông chủ chồng
tôi là chúa của nhiều thành
phố trong vùng này, rất có quyền
thế.Tôi là vợ ổng đã nhiều năm
mà không có con, nhưng mới 2
ngày nay tôi sanh được một bé trai.
Điều khốn khổ, là mới sanh ra nó đã
mắc bịnh cùi. Chồng tôi liền ra lịnh hoặc
là tôi kiếm người nuôi nó ở
một xứ xa, không có ai biết về ổng, hoặc
là giết nó đi, bằng không ổng sẽ
không nhìn tôi nữa". Cô Ba
bèn kể chuyện mình đã được chữa
lành nhờ tắm nước dư sau bé Jesus, và
cũng nói thêm rằng bé Jesus
cùng cha mẹ đang ngủ nơi nhà khách.
Bà chủ mừng quá, hôn cô Ba,
sai đặt tiệc đãi gia đình Joseph, rồi
hôm sau, lấy nước thơm tắm bé Jesus, sau
đó đem con mình nhúng vào
châu nước dư. Đứa con lành ngay tức
thì, mọi vết cùi tiêu tan
hết.Bà chủ hôn cô Ba, cám ơn
Marie, ca tụng Đức Chúa Trời, hôn bé
Jesus, và nói: "Phước thay là cha mẹ
em ; em tẩy sạch mọi người bằng nước em tắm".
-Marcellus, chuyện anh kể thiệt là hay. Và về
cô Ba, thì sau đó số phận ra sao?
-Thưa hoàng đế, sau đó cổ lấy chồng, chồng
là một con la. Marcellus vừa cười vừa trả lời.
-Ha ha, anh khéo đặt chuyện diễu, ta cười bể bụng.
-Thưa hoàng đế, tôi đâu dám
diễu, đấy là chuyện thật. Đầu đuôi câu
chuyện như sau. Joseph ở lại đó hai ba ngày, rồi
lên đường đến một làng khác.Họ trọ nơi
nhà một đôi vợ chồng không có
con. Người vợ tâm sự với Marie rằng không
có con vì cớ chồng bất lực, làm
gì cũng chẳng được. Sáng sớm hôm
sau,Joseph sửa soạn lên đường,thì bà vợ
cản lại. Bà vợ yêu cầu ở lại chung vui,
và giải thích với nét mặt đỏ
vì thẹn, rằng đêm qua ông chồng hết bịnh
bất lực, ôm bà vợ cả đêm. Vì
cớ đó, bà vợ mở tiệc lớn chiều nay, và
khẩn khoản Joseph ở lại cùng ăn mừng, bà
này cho rằng được phước là nhờ vợ chồng Joseph
và bé Jesus có mặt. Joseph vui
lòng ở lại dự tiệc, sáng hôm sau mới
lên đường.
-Được, cũng là một phép lạ nữa. Nào kể
đi ta nghe chuyện cô Ba lấy con la.
Người lấy súc vật làm chồng.
Chuyện lấy con la như sau. Sáng ra, sau bữa tiệc linh
đình, mọi người còn say ngủ, Joseph hối mọi người
lên đường, họ đi suốt ngày về phía
đông.Chiều lại, khi mặt trời sắp lặn, họ thấy cùng
đi một đường với họ, có ba phụ nữ ra từ một nghĩa địa gần
đó, vừa đi vừa khóc. Marie thấy vậy, bảo
cô Ba: -Em hãy đi mau đến chào họ, hỏi
họ có chuyện gì buồn mà
khóc dữ vậy".
Thay vì trả lời cô Ba, họ hỏi lại: "Mấy người từ
đâu đến, và đi đâu, mặt trời sắp lặn
rồi". Cô Ba trả lời rằng bọn mình là
lữ-khách, đang tìm chỗ ngủ qua đêm. Họ
liền mời ngay bọn Joseph về trọ đêm ở nhà họ,
nói rằng nhà họ khá rộng, đủ chỗ cho
vợ chồng Joseph và con, với bọn tuỳ tùng. Họ hối
thúc: Đi ngay theo chúng tôi, đi mau
lên vì mặt trời sắp lặn, mà
vào mùa này, phải về tới
nhà trước khi trời tối. (lời chú thích
của dịch giả: ở vùng này, không
có hoàng hôn với mặt trời từ từ lặn như
ở Việt nam, nhưng trời đang sáng rực vụt tối sầm lại, như
thể buông màn trên sân khấu).
Nhà của ba phụ nữ này là một căn
nhà rộng rãi, có đồ đạc lịch sự đắt
tiền. Xuyên qua đâý, họ dẫn bọn Joseph
ra phía sau, tới một căn nhà lớn hơn, vẫn vừa đi
vừa khóc. Nhìn vào căn nhà
lớn này, họ thấy một con la, lông bóng
mượt, mắt sáng ngời, trên lưng phủ một
cái mền tơ thêu vàng, con la đang ăn
hột mè (vừng) trong tay một bà đứng tuổi. Ba phụ
nữ ào vô nhà, ôm cổ con la,
hôn nó, vuốt ve nó không
ngớt. Cô Ba hỏi họ: "Con la này là thế
nào?". Ba phụ nữ nức nở trả lời: "Em trai út
chúng tôi đấy", rồi kể sự tình của họ.
Cha của ba phụ nữ này rất giầu, chết đi để lại
tài sản lớn, nhà cửa rộng rãi như bọn
Joseph thấy khi bước vô. Ba phu nữ này
tính chuyện cưới vợ cho em trai, Tin này đưa ra,
các cô gái trẻ trong vùng
tranh giành nhau để được cưới. Để giành nhau,
các cô nhờ tay những thầy pháp đổ vạ
cho nhau. Chẳng biết các thầy pháp đổ vạ
cách nào, đổ vạ lên ai, nhưng một buổi
sáng kia, em trai biến đâu mất, mặc dầu
các cửa ngõ vẫn còn khoá
chặt. Trên giường em trai, thấy nằm một con la đang ngủ. Cả
nhà đi tìm kiếm khắp vùng, chẳng thấy
em trai đâu, hỏi hết các thầy pháp
bà đồng đều chẳng có kết quả. Họ đành
kết luận rằng con la là em trai,và cũng từ
đó, mỗi ngày họ ra nghĩa địa tới mộ cha, cầu cho
em trai.