Em tôi - Bà Lê Văn Bắc
Đuốc Thiêng 98,
tháng 12 năm 2008
Những ngày chớm đông. Trên đất nước Hoa
Kỳ này có bốn mùa rõ rệt. Ở
thành phố Dodge City này không biết
có ai quan tâm đến chuyện bây giờ
là cuối thu hay đầu đông. Thu Lang cuộn
tròn trong chiếc khăn len ấm áp, lờ mờ nghĩ ngợi.
Thu Lang muốn vùng dậy ra khỏi phòng với gương
mặt làm vẻ tươi tắn, đến sở để mọi người thấy
nàng khoẻ mạnh và yêu đời. Nhưng
nàng vẫn không dứt ra được khỏi hoài
niệm ký ức.
Hôm qua là ngày cách
đây mười tám năm, Thu Lang xuống thuyền vượt
trùng dương để đến một chân trời xa lạ bỏ lại
quê hương, người mẹ già dấu yêu
không ngày gặp lại. Không khí
Giáng sinh tràn ngập khắp thành phố.
Khu phố chuyên bán đồ giáng sinh nườm
nượp người mua sắm đủ các món đồ chơi cho trẻ em.
Trời đông lạnh lắm. Giáng sinh chỉ còn
một tuần lễ nữa, nhưng Thu Lang chẳng còn tâm
trí đâu chuẩn bị. Nàng chợt thấy cuộc
đời sao vô vị quá, hệt như những khi Thu Lang đối
mặt với khủng hoảng gia đình. Những lúc ấy, Thu
Lang nghĩ về ba má. Thu Lang nhìn ra
ngoài trời thốt lên nho nhỏ: "Ba má ơi!
Con biết ba má đang ở cõi Vĩnh Hằng. Con tin như
vậy và cũng chính ba má cho con niềm
tin đó. Nhưng con nhớ ba má quá!" Im
lặng và Thu Lang khóc, khóc
mãi đến nỗi ngủ quên lúc nào
không hay...
...Nhiều đêm tôi thầm mơ, nghe khúc Thần
ca năm xưa. Nhẹ ngân trong không gian đêm
Chúa GiêSu sinh ra. Trời tuyết sương phủ trắng,
ánh sao long lanh ngời sáng. Máng
chiên rọi nguyên hào quang.
Đón Chúa giáng sinh trần gian.
Người chăn canh bầy chiên, nghe khúc Thần ca
trên cao. Lòng còn đương hoang mang.
Thiên sứ báo tin vui sao. Nhờ ánh sao
chỉ lối. Các vua băng qua rừng núi. Bê
Lem ta vội tìm tới. Tôn vinh Ngôi Hai
Chúa Trời.
Dư âm tiếng ca vang khắp. Trời đầy ánh sao. Vinh
danh Chúa Cha, trên khắp từng trời rất cao.
Hoà bình cho thế giới. Hạnh phúc cho
loài người.
Dù bao năm dần qua, như khúc Thần ca năm xưa.
Còn như vang không gian, trong tiếng
gió xa êm đưa. Mùa sáng sao
rực rỡ, đêm vui tưng bừng trần thế. Thiết tha tâm
hồn tưởng nhớ. Chúa Con Trời giáng sinh
đêm xưa!
Thu Lang thức giấc bởi tiếng hát êm dịu ngọt
ngào của người ca sĩ qua nhạc thánh
"Khúc Thần ca năm xưa" của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm.
Giữa đời sống nhộn nhịp trên xứ người, chỉ một bài
ca cũ, một dòng nhạc Giáng sinh quen thuộc bất
chợt nghe đâu đó, bỗng đem Thu Lang vượt thời gian
trở về ngày tháng cũ, những ngày
tháng tóc bom bê (bombé)
tung tăng cấp sách đến trường, rồi tuổi dậy thì
bắt đầu ươm mộng.
Mùa giáng sinh lại về, tất cả rực rỡ,
hân hoan báo tin cho mọi người biết mùa
Nô-ên đang đến và những tờ lịch của một
năm sắp phải ra đi. Nhưng hôm nay, cảnh rộn rịp tươi vui
ngoài phố làm Thu Lang tủi thân. Thu
Lang buồn vì giữa lúc thiên hạ
nô nức đón mừng Chúa ra đời
mà nàng lại ngồi yên trong
phòng vắng lạnh lẽo. Buồn! Thu Lang muốn khóc để
bao nỗi khổ được tuôn ra. Nhưng nàng
không khóc được. Thu Lang bỗng nghe hơi lạnh của
gió đông chạy luồn trong tâm hồn,
nàng buồn miên man nhớ lại những mùa
Giáng sinh trên quê hương Việt Nam đang
sống lại trong lòng nàng rõ hơn bao
giờ hết...
Chiều nay, gió trở mình trên những
vòm lá biêng biếc, mơ màng
như những đám mây trôi dật dờ
trên nền trời xanh. Bỗng tiếng người anh cả của Thu Lang cười
la lên: "Thiên sứ bay xuống sông
bây ơi!". Đó là một kỷ niệm
mà Thu Lang không bao giờ quên,
lúc đó Thu Lang lên tám.
Đêm 24 lễ Giáng Sinh, Thu Lang đóng vai
thiên sứ báo tin mừng "Chúa
vào đời" cho mấy người chăn chiên trong một vở
kịch ngắn. Có lẽ mừng vì áo mới, chiếc
áo đầm trắng tuyệt đẹp. Thu Lang bước trên cầu
lên bờ, luýnh quýnh thể nào
trợt ngay xuống nước. Người anh cảvừa nhảy xuống sông vớt
nàng lên vừa cười nói như thế trong khi
Thu Lang khóc nhiều lắm, lúc đó cả
nhà quýnh quáng la hoảng hốt.
Thu Lang là con gái út của
ông bà Tám, một gia đình hết
mực kính yêu Chúa gồm chín
anh chị em. Thu Lang sống giữa tình thương yêu
cưng chìu của cha mẹ và anh chị. Từ nhỏ cho đến
lớn, Thu Lang chưa từng bị ba má rầy la hay mắng một
câu.
Mỹ Tho, Thu Lang đã bắt đầu bước vào đời bằng một
thời mực tím, sống động và đẹp đẽ ở nơi
đây. Giờ đây trước mắt nàng, hiện
lên hình ảnh quê hương Việt Nam
và thành phố Mỹ Tho tha thiết mặn nồng. Những năm
xa nhà, xa quê hương Thu Lang nhớ quá!
Sự tái hiện tuổi thơ của người con xa xứ trong khung cảnh
một thành phố hiền hoà, ở đó
có buội chuối, cây xoài, cây
mít, cây dừa... dòng sông bến
nước... bao hình ảnh gợi nhớ, nung nấu lòng
nàng một ngày về mà nàng
không thực hiện được. Thu Lang nhớ bốn câu thơ
lúc còn Tiểu Học, nàng cùng
các bạn thường đọc rồi cười tít mắt:
Hỏi bài em không thuộc
Hỏi bút em không mang
Chiều về không nói được
Thầy ôm trời lang thang
Có một điều rất thật, là các học
trò làm thầy cô buồn không
ít. Những ngày làm cho thầy
cô vui rất hiếm hoi. Đến khi Thu Lang đã
làm cô giáo rồi mới thấm
thía điều nầy. Hoài niệm nào cũng mang
theo thứ ánh sáng êm dịu của
nét đẹp xưa. Và như thế, thời gian cứ
âm thầm trôi đi, trôi mãi
bên ba má thân thương cùng
đạm bạc trong nghề gỏ đầu trẻ của nàng.
Ba của Thu Lang thật khiêm tốn, hiền hoà,
nhân ái, vui tính thương yêu
tất cả mọi người. Ba của nàng hễ tiếp xúc với bất
cứ ai, thì người đó sớm muộn gì cũng
tin nhận Chúa. Đời sống của ông Tám
là ba nàng rất công bằng, bởi con người
đi qua, ánh sáng để lại. Ông
đã hi sinh quãng đời vàng son của
mình để đưa dắt nhiều linh hồn về với Chúa. Những
trang sử gia đình còn lưu giữ như là
chứng tích của một thời tận hiến, mà người
đã tạo điều kiện cho ba nàng hoàn
thành nhiệm vụ cho Chúa là
má nàng.
Thời gian cứ bình lặng trôi qua sau
ngày 30.4.75. Đất ngước tuy đã hoà
bình rồi, quê hương đã không
còn tiếng súng, nhưng lòng người
còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Những
đêm buồn lòng Thu Lang ngổn ngang khi nghĩ đến
ngày mai... Thì đau đớn thay, ba của
nàng, chỗ dựa tinh thần của nàng đã ra
đi vĩnh viễn về với Chúa vào mùa thu
1989. Lúc nầy, Thu Lang bình tĩnh đón
nhận tin khắc nghiệt đến với nàng. Và nếu
không ai sẽ là người phải lo cho ba
nàng trong lúc nầy. Cuối cùng, chỉ một
mình người con gái út lo cho ba mồ
yên mả đẹp, mặc dầu các anh chị của Thu Lang rất
giàu, trong khi Thu Lang phải vay vàng lo
đám cho ba nàng.
Sau khi chôn cất ba xong, chỉ còn lại hai mẹ con,
ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng.
Hình dáng, nụ cười, tiếng nói...
đâu đâu cũng in hình bóng ba.
Len lén nhìn má, Thu Lang quay nơi
khác chùi nước mắt. Tôi nghiệp
má quá! Nhưng đến một ngày kia, sau
khi ba nàng về nước Chúa không
lâu, mà vuốt tóc nàng, giọng
rắn rỏi nói:
-Má muốn con đi ra nước ngoài sống đi con!
Ngạc nhiên, Thu Lang nhìn má
nàng hỏi lại:
-Tại sao má muốn con ra nước ngoài sống? Con đi
rồi ai lo cho má? Ba mới mất mà, làm
sao con đi cho được.
Ngưng giây lát, Thu Lang khóc
nói trong nước mắt:
-Con không đi. Con ở lại với má.
Nói xong, Thu Lang đứng lên đi ra trước
sân trong khi nước mắt tuôn dài
trên má. Nhưng câu chuyện đi ra nước
ngoài làm Thu Lang thắc mắc, suy nghĩ
mãi nhiều tháng. Một hôm, sau buổi cơm
chiều, Thu Lang cười hỏi:
-Con vẫn không hiểu vì sao má muốn con
đi xa hả má?
Bà Tám nhìn con gái rồi
quay sang nơi khác nói giọng buồn buồn:
-Con phải đi! Khi má về với Chúa rồi, con
không ở yên trong căn nhà nầy
đâu?
Thu Lang vẫn không hiểu vì sao má
nàng lại nói như vậy. Thu Lang vẫn
không muốn đi xa, nàng muốn ở lại bên
người mẹ hiền dù khó khăn gian khổ gì
nàng cũng cam chịu. Khi má nàng về với
Chúa lúc đó tính sau. Nhưng
bà tám thúc giục mãi
và khuyến khích nàng nên đi
sớm, Nhiều lúc Thu Lang cười nói với
bà Tám:
-Má à! Má thử nói: "Lang
đừng đi con, ở lại với má! Má nói chơi
thôi."
Bà Tám lắc đầu nói:
-Không, con nên đi. Má rất vui
lòng Lang à!
Thật, bà Tám rất can đảm. Mặc dầu Thu Lang
là nguồn an ủi, nguồn tiếp trợ duy nhất của bà.
Nhưng bà biết trước, cuộc sống sau nầy khi bà nằm
xuống, nên bà giấu đi sự buồn đau để con
gái yên lòng ra đi.
Sự cứng cỏi của má, Thu Lang đành chịu thua.
Tình cảm dồn nén bấy lâu nay khi Thu
Lang nhìn vào đôi mắt của má
dõi theo nàng từng ấy năm dài.
Và cứ thế, nước mắt Thu Lang rơi mãi
không dứt. Lầu đầu tiên trong đời Thu Lang cảm thấy
mình sắp thiếu vắng đôi bàn tay ấm
áp.
Mây chiều vần vũ bên hông nhà,
lòng Thu Lang chùn xuống. Một luồng
gió mát lọt qua khe cửa. Bà
Tám kêu lạnh. Thu Lang lấy chiếc áo
máng gần đó choàng lên người
bà Tám mà nước mắt chảy dài
xuống môi mặn chát. Cả bầu trời sụp tối trong
bóng chiều nhập nhoạng mênh mang bí
mật. Sương đã bắt đầu rơi. Một làn mây
trắng đang lướt nhẹ bay về phía trước.
Thu Lang còn nhớ hôm nàng từ biệt
má để xuống thuyền vượt trùng dương ra nước
ngoài, nàng khóc thật nhiều thương
má từ nay cô đơn một mình. Bức thư Thu
Lang viết nhờ má trao lại các anh chị
dặïn dò, nhắn nhủ, gửi gắm, không biết
các anh có thực hiện đúng như
lòng Thu Lang mong muốn hay không? Thu Lang
đã thấy sẽ là một điều đáng nhớ nhất
trong đời nàng: "Con sẽ được Chúa gìn
giữ tới nơi bình an, má tin chắc như thế".
Bà Tám nghẹn ngào trao cho Thu Lang
chiếc áo thân quen để con gái thấy
nó nhớ đến bà và cầu nguyện. Thu Lang
cầm chiếc áo thân yêu của má
áp vào lòng nói: "Vĩnh biệt
quê hương. Vĩnh biệt má. Xin Chúa
luôn ở cùng má con".
Thu Lang thì thầm mắt dõi theo bóng
đen khuất dần trong màn đêm.
Thu Lang hiểu trong thâm tâm của người mẹ
là luôn mong đứa con gái út
của bà thành công trên đường
đời. Má nàng là sự bắt đầu của một
tình mẹ vĩ đại nhất. Trong những lúc gần gũi
bên mẹ. Thu Lang nhận thấy má nàng rất
quí yêu con cái, rất cao thượng
và rất tự trọng. Má nàng
luôn cam chịu mọi thử thách, khó khăn,
đau khổ trong cuộc sống sắp tới khi thiếu vắng đứa con gái
nầy.
Đuốc Thiêng 98
1
Trái Tim của
Phúc Âm - ĐTPÂ
2
Đức Chúa Trời
bày tỏ tình yêu - TĐ Nguyễn
Đình Liễu
3
Thơ: Hạnh
phúc đêm đông - Trần
Nguyên Lam Bửu
4
Thơ: Mục đồng gặp
Chúa - Linh Quyền
5
Đức Chúa Trời
ở cùng chúng ta - Quyền Linh
6
Kéo
các ngươi đến cùng ta - MS Trần Hữu
Thành
7
Thơ: Đêm xưa ấy
- Bình Tú Ngọc
8
Đường đến
thiên đàng - Nguyễn Đình
Bùi Thị
9
Thơ: Thương cảm
- Võ Chánh Tiết
10
Đời chẳng ai ngờ
- Vinh Bằng
11
Xứ Do Thái
hồi Chúa Giê-xu sinh ra - Mai
Đào
12
Thơ: Tiếng
chuông ngân - Emmanuel
13
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
14 Em tôi - Bà Lê Văn Bắc
Những ngày tàu của Thu Lang lênh
đênh trên mặt biển, cộng thêm một
tháng nơi hoang đảo cực khổ biết dường nào. Nhưng
Thu Lang tin chắc Chúa sẽ giúp đở, giữ
gìn, bao phủ nàng. Cảm tạ ơn Chúa
đã nghe lời cầu xin của nàng. Chúa
đã nhậm lời đưa một chiếc tàu của Mỹ cứu
giúp và đưa cả đoàn người
trên tàu gồm 75 người đến đảo Galang.
Và đã ban phước cho nàng gặp lại gia
đình người anh thứ Chín đã vượt biển
trước nàng 3 năm. Cám ơn Chúa một sự
đoàn tụ hiếm có. Tại đây, thiếu thốn
mọi bề, nhưng Thu Lang cùng tất cả mọi người đều chấp nhận
để rồi lần lượt cũng sẽ được ra đi định cư ở nước thứ ba. Sau
đó, Thu Lang kết hôn với một thanh niên
cùng đi chung chiếc tàu với nàng.
Lần lượt gia đình anh Chín được định cư sang Mỹ
tại tiểu bang California, sau đó sang tiểu bang Kansas. Đến
tháng 4 năm 1993, Thu Lang cùng chồng định cư
tiểu bang Kansas cho đến nay. Những ngày đầu đặt
chân trên đất nước xa lạ nầy, Thu Lang
không sao ngủ được. Cảnh lạ, người lạ nhất là
không cùng chung một ngôn ngữ...
làm Thu Lang bỡ ngỡ, lo lắng vô cùng.
Đến năm 1995, người chị thứ tám của Thu Lang ở Denver,
Colorado trở về quê hương thăm má, trở qua Mỹ chị
cho Thu Lang biết tin tức về má, làm
nàng rất đau lòng. Vì quá
nhớ thương Thu Lang, đồng thời quá lâu
không nghe tin tức, má nàng
ngã bệnh mấy tháng liền. Đến khi biết được Thu
Lang đến đảo bình an và gặp lại anh thứ
chín của mình, má nàng vui
mừng và tạ ơn Chúa, hết bệnh sau đó.
Má nói với chị:
-Má buồn nhớ em con quá, má ngồi tại
đi-văn (divan) nầy may tay từng miếng vải hình tam
giác nhỏ thành hình những chiếc
áo gối cho đở buồn. Bây giờ má thấy hiu
quạnh quá: "Vì là gái sinh
ngoại tộc mà con!". Vì vậy má bảo em
con phải đi ra nước ngoài, má biết em con xa
má, má rất buồn khổ, cô đơn, nhưng
có Chúa an ủi má!
Chị trở qua Mỹ chị nghẹn ngào nói với em:
-Nhìn những chiếc áo gối công phu của
má, chị không cầm được nước mắt. Chị biết
má nhớ em nhiều lắm và những lời má
nói ở trên, má quyết định bảo em phải
đi dù biết rằng má khổ đau tột cùng,
nhưng phải hi sinh cho con.
Hôm đầu tiên ngủ trên giường êm
nệm ấm, mặc đầu trên quê nhà Thu Lang
đã trải qua, nhưng hôm nay sao lòng
nàng tẻ nhạt cô đơn quá. Tiếng xe
ngoài đường âm thầm nối đuôi nhau suốt
đêm gợi thêm cho Thu Lang thêm lo
âu, cả đêm Thu Lang không ngủ được
dù đã thắm mệt, bên cạnh chồng
nàng đã ngủ ngon. Mấy căn nhà
bên cạnh cũng tắt đèn gần hết.Nàng nhớ
nhà, nhớ ba má, nhớ người thân
và cảm thấy hối hận. Nếu không vì lời
má, thì giờ nầy Thu Lang ngủ yên
bên cạnh má, không lo lắng,
không cô đơn.
Đêm bỗng dài vô tận, nhịp đồng hồ từng
tiếng tíc tắc vọng đều trở nên lạnh
lùng buồn bã. Thời gian cứ trôi qua đều
đặn, nuối tiếc gì trong khoảng không tĩnh lặng, mơ
mộng gì giữa tiếng hư vô. Bao năm tháng
trên đảo, tuy thiếu thốn, cực khổ, đôi khi
không đủ no lòng, nhưng cũng đọng lại trong tim
nàng những kỷ niệm khó quên.
Ngoài kia, mưa tuyết lại rơi, những giọt mưa gõ
nhịp đều đều trên mái tôn che trước
hiên nhà càng làm Thu Lang
buồn thêm.
Thoáng xa, thoáng gần trong không gian
im ẳng có tiếng chim sẻ lích chích
kêu khẽ, tai nghe mà tâm trí
nàng nhớ má quá. Giờ nầy má
đang làm gì hả má? Chắc nhớ con lắm.
Con cũng vậy, con đang nhớ và nghĩ về má
đây.
Nhưng cuộc đời vốn không đẹp như lòng người mong
muốn. Thu Lang vốn tính an phận, hoà nhịp với
cuộc sống mới, không phàn nàn hay nuối
tiếc dĩ vãng. Bản chất thực tế và giản dị, suốt
cuộc đời chỉ lo cho chồng. Thật ra hạnh phúc gia
đình nào cũng có những lúc
êm đềm, sóng gió cùng những
khi vui buồn, phức tạp. Những nét sâu đậm để nhớ,
khó phai mờ và dễ dàng tha thứ cho
nhau mỗi lúc giận hờn là những gì
mình biết sống cho nhau và tất cả vì
nhau. Thu Lang vẫn biết như thế, song chồng nàng
không phải là người dễ dàng thuyết
phục, dễ dàng phục thiện và dễ dàng
cho người thân xây dựng. Anh ấy là
thành phần cá biệt, luôn
không hài lòng với những gì
mình đang có. Như người tàn tật mơ
được lành lặn. Kẻ chột ước sáng cả hai mắt. Người
có đủ hai mắt mong được đôi mắt đẹp. Người đẹp một
thì muốn hai. Hoa khôi cả làng
thì mong đẹp nhất nước. Họ là những
khát vọng không bao giờ thoả mản của con người.
Anh ấy không hiểu rằng tất cả chúng ta đều được
sinh ra để yêu. Đó là nguyên
lý sinh tồn và cũng là cứu
cánh duy nhất, mà người đàn
bà sẽ không là tôi tớ hay vật
sở hữu của người đàn ông mà họ
yêu thương.
Tình yêu là điều quan trọng của mỗi đời
người. Một tình yêu đứng đắn sẽ khiến hai người
giúp đỡ lẫn nhau, hỗ trợ trong công việc như trong
hạnh phúc gia đình sau nầy. Bao năm sống chung.
Thu Lang chỉ chuốc lấy những xót xa ê chề
đã khắc từng ly trong trí nhớ nàng, lờ
mờ như khu vườn trong những lớp mưa xoá sạch. Nhiều
lúc Thu Lang thì thầm thưa với Chúa:
-Chúa ôi! chung quanh con đầy ước mơ, nhưng sao
bóng tối vẫn giăng đầy. Chúa dạy con
tình yêu cần nhiều bao dung, mà sao đời
con lắm ngang trái đến vậy?
Mỗi lần than thở cho số phận thì Thu Lang liền lấy quyển
Kinh Thánh ra đọc, suy gẫm để được an ủi, để vơi đi nỗi buồn
đau trong tâm hồn. Và ngày lại
ngày, nỗi buồn làm tổ trong lòng
nàng. Trước bầu trời xám xịt, Thu Lang ngồi
khâu trong im lặng. Trong buổi chiều đông
rét mướt, nàng đang khâu những
mùa đông đời mình.
Cảm tạ ơn Chúa, Ngài luôn
dìu dắt, nâng đở, quan phòng Thu lang
trong những lúc đau khổ nhất. Ai cũng có một đời
để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai.
Vết thương nào rồi cũng lành với thời gian. Tuy
nhiên có một nỗi bất hạnh sao bao nhiêu
năm dài vẫn còn đó là nỗi
bất hạnh không được nhìn mặt má trong
giờ phút cuối cùng má về an nghỉ trong
nước Chúa. Đó là điều làm
nàng ân hận mãi không
nguôi.
Gió chiều quấn quít theo nhau chạy qua thềm.
Hương dạ lý ngọt ngào, thơm ngát xua
đuổi giùm nàng những chuyện không may
sống bên chồng. Tâm hồn thoáng chốc thơ
thới, nhẹ lâng, Và nàng bỗng nhớ Mỹ Tho
vào đông...
Chiều nay thành phố Doge City không tĩnh lặng.
Chiều cuối tuần, chiều của sự sum họp gia đình. Những đứa
bạn của con đang vui sướng, chúng bàn với nhau về
đưa mẹ của chúng nó đi sắm Nô
Ên cho bửa ăn nửa đêm. Má ơi! Con bước
vội ra khỏi sở, môi cắn chặt. Con thì thầm gọi
má ơi mà nước mắt chảy dài.
Trời buốt giá, cái lạnh của mùa
đông như đồng cảm. Dòng xe vẫn đi, có
ai biết được nỗi buồn của con không má ơi!
Bầu trời Denver hôm nay xám đục, sắp có
tuyết hay mưa. Cây cối hai bên đường gầy
khô trơ cành trụi lá, co ro, dựa dẫm
vào nhau cho đở đi cơn gió rét. Mặc
dầu trời buốt giá, nhưng những gia đình con
cái Chúa vẫn phải vượt đường dài để
đến dự lễ Giáng Sinh. Quang cảnh nhà thờ Việt Nam
nơi tôi hầu việc Chúa thật tưng bừng rộn rịp, nơi
đây tôi đã tìm lại
hình ảnh Nô-ên trên
quê nhà. Lòng tôi thấm đượm
một nỗi buồn man mác . Bao nhiêu kỷ niệm xa xăm về
mùa Giáng sinh sống lại đầy vơi trong
lòng tôi. Giờ đây những ký ức
lại nẩy nở rõ ràng hơn nữa. Tôi buồn,
một nỗi buồn không sao diễn tả được.
Mỗi người Việt Nam tị nạn hình như đều mang tâm
hồn hoài cảm tìm ẩn. Dù họ may mắn
thành công trên đường xây dựng
sự nghiệp, vẫn mang nỗi sầu xa xứ, thương xót quê
hương trong cảnh gia đình ly tán nhất
là vào dịp Tết hay lễ Giáng Sinh.
Quê hương là nơi ta sinh ra, ai cũng biết, nhưng
quê hương yêu dấu đến chừng mực nào
thì có lẽ chỉ có những người đi xa mới
hiểu. Như người em gái út của tôi
là Thu Lang. Ở đây có những buổi cơm
cuối tuần ngon miệng, tôi thường nói với
các cháu :
-Ngày nào mình còn ăn cơm,
còn nhìn thấy những hạt gạo. Ta phải tạ ơn
Chúa đã ban phước cho ta được sống trên
một đất nước mạnh giàu nhất thế giới. Ta phải
hãnh diện, phải nhớ mình là người Việt
Nam. Riêng tôi vẫn không quên
được những lời ân hậu, những nghĩa cử cao đẹp, những việc
làm chân thành đượm tình
bè bạn trong Chúa, những ngày lận đận,
những bửa cơm thanh đạm nhưng chất chứa biết bao ân
tình.
Em tôi, một phụ nữ yếu đuối, nhưng những điều em
làm như gởi quà về cho gia đình, cho
các đầy tớ Chúa và Hội
Thánh là những nơi đã in dấu
gót chân miệt mài của ba
chúng tôi đưa dắt nhiều linh hồn về cho
nhà Chúa, cho các gia đình
cô nhi quả phụ của đầy tớ Chúa em đều
góp phần không phải là nhỏ.
Em tôi có tấm lòng yêu thương
mọi người, kể cả những người bạn ngoài đời sẵn
sàng giúp đở nhiều về mọi mặt.
Những việc làm cùng lời nói
ân hậu của em không phải bất cứ ai, người
giàu có, có địa vị nào cũng
có thể làm được. Nó phải
phát xuất từ một tình yêu cao thượng
và tấm lòng nhân ái.
Tôi không đủ lời về em tôi sự hy sinh của
em đều đáng quí.
Qua việc làm của em, tôi nhận ra rằng:
"Tình yêu là lẽ sống". Quá
đơn giản, quá bình thường nhưng đôi khi
ta lại chẳng nhận ra. Nhưng rồi một ngày kia, mọi người đều
nằm xuống và trên đời chẳng có ai tưởng
nhớ đến mình nữa và lúc đó
chúng ta sẽ được tiếc thương trong chốc lát để
rồi mãi mãi bị quên lãng
theo năm tháng. Nhưng tình thương dù
ngắn ngủi thế nào cũng là đủ. Tình
thương bao giờ cũng theo quy luật tự nhiên có vay
có trả. Thương người để được người thương. Ngôi
nhà thờ là nơi quy tụ tình thương
và chỉ có tình thương mới
có ý nghĩa và tồn tại vĩnh viễn.
Vì tình thương là sợi dây
tâm linh kết hợp con người với nhau và cũng
là liều thuốc mầu nhiệm hàn gắn được những mất
mát đổ vở trong đời người.
Mặc dầu trong cuộc sống bận rộn nơi xứ người, nhưng lòng
người xa quê hương cứ vào dịp
Nô-ên về, mọi người hầu như ngậm ngùi
nghĩ về những ngày Giáng sinh nơi quê
nhà. Nhưng rồi, cuộc sống lâu ngày cũng
thành quen dần. Vì ngày đón
mừng Chúa vào đời đúng vào
giữa mùa đông lạnh lẽo. Tôi nhớ những
mùa Giáng sinh trên quê
nhà, nhớ những đêm dạo chơi ngắm đèn
ngôi sao, cùng những dây kim tuyến lấp
lánh... nay chỉ còn là kỷ niệm.
Ngoài trời những bông tuyết bay lất phất
trên những cành cây trụi lá.
Một chập, tuyết ngưng rơi, không gian như lắng đọng giữa một
vùng đồi núi mênh mông quạnh
quẽ. Một chút nắng hiếm hoi rọi lên những
chùm bông tuyết lấp lánh trên
những hàng cây thông đu đưa trong
gió, một vẻ đẹp làm tê tái
lòng người.
Thắm thoát đã hơn 18 mùa
Giáng sinh rồi. Tôi nhìn mênh
mông ra sân vắng. Trời đã về chiều,
ánh vàng đã khuất sau dãy
núi Rocky, xa xa đèn thành phố rực
sáng. Thoang thoảng trong gió, trong trời đất
và trong nhà thờ tiếng hát dễ thương
của Khải Huyền, đứa cháu nội của tôi
làm lòng tôi dâng
tràn cảm xúc:
-"Ngày xưa sông núi xinh tươi con người
đang sống an vui bên Chúa Trời. Thời gian man
mác êm trôi bỗng người xa
Chúa nên tội tràn nơi nơi.
Chúa đã hứa ban Con Ngài yêu
dấu sinh nơi dương thế u sầu. Huyết thánh nhuốm
trên địa cầu để cứu bao người đang thương đau...
Nhìn phố xá đầy ánh đèn đủ
sắc mừng đón Chúa Jêsus
giáng trần đêm nay như mời gọi, lòng
tôi cảm thấy ấm áp vô cùng.
Bên ngoài nhà thờ, gió
rít từng cơn. Đêm vẫn trải dài đều
vào trần gian những bước êm và chậm...
Tuyết vẫn bay bay...