TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Nguyên tác:
sách "Les croisades vues par les arabes" - Thập tự chinh
dưới mắt người A rập. Nhà Xuất bản: JC Lattès,
Paris, 1983
Tác giả : Amin Maalouf
Trích dịch : Lạc Hồ
(coi Đuốc Thiêng từ số 3)
Đuốc Thiêng 98, tháng 12 năm 2008
Chương 51/4 : Hai ngàn ngày trước tripoli
Tripoli thất thủ.
Sử-gia Ibn al-Qalanissi chép: "Quân Franj đem
toàn lực ra tấn công Tripoli, đẩy nhiều
đài di-động đến sát tường thành. Khi
dân trong thành thấy quân Franj tiến lại
cách quá dũng mãnh, họ mất hết can
đảm, vì họ hiểu rằng mất thành là
cái chắc. Lương thực trong thành đã
cạn, mà đoàn chiến-thuyền Egypte chờ
mãi không thấy. Tội nghiệp cho họ, Đức
Chúa Trời đã quyết-định đoàn
chiến-thuyền bị gió ngược, Ngài muốn vậy".
Hai bên đánh nhau kịch liệt, rồi ngày
12 tháng 7 năm 1109, quân Franj chiếm được
thành. Sau 2000 ngày chiến đấu, thế là
chấm dứt số phận thành-phố của các thợ
vàng thợ bạc, của các thư viện, của
các thuỷ thủ gan dạ, các chiến binh can đảm, nay
bị tàn phá hết. Thư-viện Darem-Ilm chứa 100
ngàn cuốn sách, bị cướp rồi bị đốt hết,
chúng nói là sách
"phản-giáo", phải diệt cho hết. Tài sản trong
thành bị quân Franj cướp, dành
riêng cho vua Baudoin những thứ vua thích, phần
còn lại chia ba, một phần về tay quân
thành Gênes, 2 phần về tay con trai tướng
Saint-Gilles. Đa-số dân trong thành bị
bán làm nô lệ, những người
còn sót lại bị bóc lột hết,
và bị đuổi đi nơi khác. Trong số này,
nhiều người đi đến hải cảng Tyr. Về phần Fakhr el-Moulk, anh
này về ở ngoại ô thủ đô Damas,
và sẽ chết già ở đấy".
Còn đoàn chiến thuyền Egypte thì ra
sao? Ibn al-Qalanissi viết: "Họ đến Tyr 8 ngày sau khi
Tripoli thất thủ, mọi chuyện đã xong, vì Trời
đã muốn phạt dân thành Tripoli như
thế".
Tiến đánh Beyrouth.
Sau Tripoli, quân Franj nhắm đến Beyrouth. Tháng 2
năm 1100, 5 ngàn dân thành Beyrouth ra
sức chống cự, liên tiếp đốt cháy các
đài di động. In al-Qalanissi chép:
"Quân Franj chưa hề phải đối phó với sự chống trả
mãnh liệt như thế, từ trước chẳng có,
mà về sau cũng chẳng có". Quân Franj
không tha, sau khi chiếm được thành
ngày 13 tháng 5, họ giết hết mọi người. Giết để
làm gương.
Tiến đánh Saïda.
Qua mùa hè, quân Franj tiến
đánh hải-cảng Saida, tức là Sidon xưa dưới thời
người Phê-ni-xi. Saida có tường thành
vững chắc đặc biệt, trong lịch sử tường này bị
phá đi, xây lại nhiều lần, đến nay ta
còn thấy những phiến đá khổng lồ chọi với
sóng biển Địa-trung. Dầu vậy, dân trong
thành hồ hởi lúc quân Franj bắt đầu
cuộc chiến, nay chẳng được lâu, họ mất hết chí
chiến đấu. Họ gởi đại diện tới xin đầu hàng để được sống,
vua Baudouin chấp thuận, và thành này
đầu hàng ngày 4 tháng 12 năm 1110. Lần
này không có tàn
sát, dân trong thành ồ ạt tản cư tới
Tyr và Damas, lúc này đã
đông nghẹt người tản cư.
Khởi đầu thánh chiến.
Chỉ trong khoảng 17 tháng, 3 thành phố nổi tiếng
nhứt của thế giới Ả-rập bị chiếm, bị tàn phá,
dân cư bị giết, bị lưu đày, mọi chức sắc phải tản
cư, các đền hồi giáo bị phá hại,
xúc phạm. Có lực lượng nào
đây chăng, để ngăn quân Franj tiến tới chiếm Tyr,
Alep, Damas, Caire, Mossoul, và cả Bagdad nữa? Có
còn ý chí kháng chiến hay
không? Trong giới lãnh đạo, chẳng còn.
Nhưng mầm của cuộc thánh chiến, (tiếng arabe kêu
là jihad), bắt đầu phát sinh trong dân
chúng. Lâu nay, từ-ngữ này chỉ
dùng để nói suông trong các
diễn văn, nay sẽ thành sức mới trong dân
chúng. Đã 13 năm, bọn quân Franj sỉ
nhục chúng ta quá chừng, nay là
lúc phải đứng lên rửa nhục. Đó
là đại ý lời kêu gọi của một tu-sĩ nhỏ
ở Alep, nhỏ chức và cũng nhỏ người, nhưng không
nhỏ tiếng nói, tên là Abdou-Fadl Ibn
al-Khachab (từ nay, để tiện cho các độc giả, sẽ chỉ
kêu là Khachab). Độc giả còn nhớ 12 năm
trước, anh al-Harawi đã đến thủ đô Bagdad
gây náo động, kêu gọi thánh
chiến, nhưng không thành công,
vì quốc vương lơ là. Lần này
hành động của al-Harawi được Khachab tái diễn,
và thành công rực rỡ, chúng
ta sẽ thấy trong chương sau.
Chương 51/5 : Tu Sĩ Kháng Chiến
Khachab gây náo động.
Thứ sáu 17 tháng 2 năm 1111, Khachab dẫn đồng bọn
đến Bagdad, uà vào đền hồi-giáo của
sultan (quốc vương). Bọn người rất đông này
là dân thành Alep, trong số
này có một tu-sĩ dòng
hachémite, thuộc dòng dõi của
tiên tri Mahomet.
Theo sử gia Qalamissi, họ ùa vào, tới chỗ
đài giảng dạy, đuổi giảng viên ra, đập bể
đài, kêu la rầm rĩ, vừa khóc vừa kể
những nỗi khổ do quân Franj gây ra cho người
hồi-giáo, đàn ông bị giết,
đàn bà và trẻ em bị bắt làm
nô lệ. Thấy hành động của họ ngăn trở
không cho các tín đồ cầu nguyện, ban
quản-trị đền thờ dỗ cho họ yên bằng cách
nhân danh quốc vương, hứa với họ là sẽ đưa
quân đi đánh bọn Franj, và
đánh tất cả những kẻ ngoại-giáo.
Những lời hứa suông không làm họ thoả
lòng, thứ sáu sau đó, họ lại biểu
tình, lần này ở đền thờ của chủ tịch
thành phố. Lính canh bị họ gạt ra bên,
họ đập bể đài giảng dạy dầu đài này
rất đẹp, có khắc những câu kinh Coran; tệ hơn nữa,
họ chửi rủa luôn cả tiên tri Mahomet, gây
lộn xộn cả thành Bagdad. Họ làm cho Moustazhir,
chủ tịch thành phố nổi giân,vì họ
gây rối luôn cho vợ y, bà này
là em gái quốc vương, đi tham quan
thành phố Ispahan nay trở về Bagdad, có
đoàn tùy tùng đông đảo
và lịch sự đi cùng, bị đoàn biểu
tình ngăn trở. Moustazhir ra lịnh bắt đoàn biểu
tình bỏ tù hết, nhưng quốc vương ngăn lại,
còn ra lịnh phải thành lập
quân-đoàn đi đánh quân Franj.
Quốc vương rất lo ngại cho tình hình, từ khi được
tin quân Franj đã chiếm hải cảng Saida, lại
còn bắt dân thành Alep phải nộp tiền
cống và chịu đủ thứ nhục nhã.
Chúng ta nhớ lại rằng Tancrède cầm đầu
quân Franj đã chiếm Antioche, và sau
đó đem quân đi đánh thành
Alep. Thành Alep xin hàng, Tancrède
bắt họ phải nộp cống hàng năm 20 ngàn đồng
dinars, phải để Tancrède chiếm 2 pháo
đài kế bên Alep, phải nộp 10 con ngựa đẹp nhứt, để
tỏ dấu hiệu là chịu phục, phải dựng thập-tự trên
nóc đền hồi-giáo, v.v. Tiểu vương Redwan, chủ
thành Alep, muốn được yên thân, nhất
nhất tuân theo những lời Tancrède yêu
cầu, làm cho dân chúng trong
thành rất tức giận, người tức giận hơn cả là
Khachab. Khi Khachab thành lập phái
đoàn để đi Bagdad cầu cứu, Redwan không đồng
ý, vì không muốn lôi
thôi, sợ rằng Tancrède sẽ làm khổ
mình khi thấy quân Bagdad tới gần. Tuy
nhiên, Radwan cũng để cho phái đoàn ra
đi, tính thầm rằng phái đoàn sẽ chẳng
gặt hái được gì, bởi vì trước
đây đã có bao nhiêu
phái đoàn tới Bagad cầu cứu mà phải về
tay không.
Quân thánh chiến lên đường,
nhưng không tranh chiến.
Nhưng lần này, tiểu vương Readwan tính lầm. Sau
cuộc biểu tình của Khachab, quốc vương Bagdad ra lịnh cho
tướng Mawdoud, tỉnh trưởng thành Mossoul, phải đem ngay một
đoàn quân hùng hậu, đi tiếp cứu
thành Alep, ra lịnh cho các chủ thành
lân cận phải đem quân đến tham gia.