Đuốc Thiêng 96,
tháng 8 năm 2008
Nguyên tác : sách "Les croisades vues
par les arabes" - Thập tự dưới mắt người Ả rập.
Nhà Xuất bản: JC Lattès, Paris, 1983.
Tác giả : Amin Maalouf.
Trích dịch : Lạc Hồ.
Chương 51/3 : Quân Franj ăn thịt người (tiếp theo) (coi Đuốc
Thiêng từ số 3)
Ngày 19 tháng 5 năm 1099, quân Franj
vượt qua sông Nahrel Kalb, biên giới
phía bắc của lãnh thổ Fatimides.
Egypte đối phó ra sao?
Phòng thủ Jerusalem
Afdal ra lịnh củng cố phòng thủ Jerusalem mà bỏ
rơi các thành phố của mình ở ven biển
Méditerranée. Tất cả các
thành phố nầy, trừ một, đều xin huề với quân Franj.
Thành phố đầu tiên xin huề là Beyrouth,
ở cách sông Nahrel Kalb 4 ngày đường.
Phái đoàn Beyrouth đến gặp quân Franj,
hứa là sẽ cung cấp vàng, lương thực và
hướng dẫn viên với điều kiện là đừng
phá hoại mùa màng trong
vùng lân cận Beyrhouth. Họ cũng nói
thêm là Beyrouth sẽ bằng lòng chịu
phục, nếu quân Franj chiếm được Jerusalem.
Chỉ có thành phố Saida, tức là Sidon
ngày xưa dám chống cự, nhiều lần đưa
quân đánh nhau. Quân Franj đối lại,
phá tan các vườn cây ăn
trái, cướp phá các làng
xung quanh. Hai hải cảng Tyr và Acre, tuy rất dễ
phòng thủ, nhưng cũng làm theo Beyrouth.
Dân cư các thành phố trong xứ Palestine
đều di tản nhiều ngày trước khi quân Franj đến.
Quân Franj chẳng gặp sự chống cự nào
đáng kể, và sáng ngày 7
tháng 6 năm 1099, dân thành Jerusalem
nhìn ra xa thấy họ hiện ra trên ngọn đồi gần đền
tiên tri Samuel và nghe tiếng họ hò
reo. Đến chiều, thấy họ đóng trại dưới chân tường
thành.
Trong thành Jerusalem, tổng chỉ huy quân Egypte
là tướng Iftikhar ad Dawla, cũng đứng trên
tháp canh David, nhìn xuống quân Franj.
Từ nhiều tháng rồi, y đã chuẩn bị ngày
bị quân Franj đến vây hãm.
Mùa hè năm trước, khi Afdal đến đánh
quân Turc, phá sập một khúc tường
thành, thì nay đã tu bổ rồi. Y
đã cho tích trữ nhiều lương thực,
phòng khi bị vây lâu, để có
thể chờ quân của Afdal, vì Afdal đã hẹn
là sang tháng 7, sẽ kéo quân
đến giải vây cho Jerusalem. Mới mấy ngày gần
đây, y cho rải thuốc độc lên tất cả mọi nguồn nước,
mọi giếng nước lân cận, không cho địch
quân có nước dùng. Địch quân
sẽ không dễ gì hành động dưới mặt trời
gay gắt tháng 6.
Quân Franj kỳ quặc
Với Iftikhar, khởi đầu cuộc chiến, mọi sự đều thanh thông.
Chắc chắn sẽ giữ được thành cho tới khi quân của
Afdal đến cứu, vì trong thành có
đông đảo các chiến sĩ người Ả rập, người Soudan,
có công sự kiên cố vòng quanh
suốt trên các đồi cao, các
hào sâu. Bọn Tây phương kia từng
có tiếng là can đảm, nhưng mà
hành động của họ thấy là vô
lý dưới mắt một chiến binh đầy kinh nghiệm như
mình. Tưởng đâu là khi tới rồi, họ sẽ
dựng đài cao di động, đặt máy bắn phá,
đào hào xung quanh thành để ngăn chặn
quân trong thành xông ra. Nhưng kỳ quặc
thay, họ chẳng làm thế! Họ tổ chức diễu hành
quanh bên ngoài tường thành,
có các thầy tế lễ dẫn đầu, họ vừa diễu
hành vừa hát vang vang, hát khan cổ
rồi sau đó mới xông tới đánh
phá các vách thành,
mà lại chẳng có thang để leo lên! Afdal
đã cho tin là quân Franj tấn
công vì mục đích tôn
giáo, nhưng cuồng tín kiểu nầy làm y
ngạc nhiên. Chính mình y là
người Hồi giáo ngoan đạo, nhưng hiện nay y chiến đấu ở
Palestine, là để bảo vệ quyền lợi của Egypte, và
tại sao phải dấu, vì quyền lợi cá nhân
của y, sẽ được vinh thăng nay mai sau chiến công.
Y vẫn biết là thành Jerusalem nầy không
phải như các thành phố khác. Ở Egypte,
người ta thường kêu là thành Iliya.
Nhưng các thầy thông giáo,
các quan chức, kêu là thành
Al Quds, hoặc Beit el Maqdless, hoặc al Beit al Mouqaddas (lời dịch
giả: kể ra cho hết như trên, là để quý
vị dễ truy cứu với các văn kiện lịch sử của Egypte). Họ kể
đây là thành thánh đứng thứ
ba của Hồi giáo, sau hai thành La Mecque
và Médine. Nơi thành nầy, một
đêm xưa, Đức Chúa Trời đã dẫn
Tiên tri Mohamed của họ, đến gặp Môise,
và Giêsu, con của Marie. Từ ngày
đó, với tất cả mọi người hồi giáo, Jerusalem
là thành thánh trong lịch sử
tôn giáo của họ, và rất nhiều người
hành hương đến Jerusalem, để thờ lạy nơi đền alAqsa, nổi
tiếng vì mái đền hình bán
cầu dát vàng nổi bật trên
các mái nhà hình
vuông trong thành phố.
Iftikhar thấy quân Franj cứ đều đều diễu hành mỗi
ngày quanh thành, nhìn thấy
thì bực mình, thì y yên
trí, vì diễu hành đâu
có ăn nhằm gì đến chiến sự. Nhưng khi cuộc
vây hãm bước qua tuần lễ thứ nhì, y bắt
đầu lo sợ. Địch quân đã kết liễu việc dựng hai
đài tấn công bằng gỗ, vừa lớn vừa cao. Đầu
tháng 7, hai đài hoạt động, có thể đưa
hàng trăm chiến sĩ tới ngang mặt thành. Từ trong
thành, mọi người đều lo ngại khi nhìn thấy
dáng hai đài cao kia.
Iftikhar đã ra lịnh, nếu đài ấy tiến tới gần
thành, trước hết là phải bắn tên như
mưa. Nếu đài tiến tới gần hơn nữa, thì
dùng lửa grégeois, tức là lấy dầu lửa
trộn với diêm sinh (soufre), đổ trong vò,
châm lửa, rồi ném vào quân
địch. Chiến thuật nầy đã giúp quân
Iftikhar đẩy lui nhiều đợt tấn công trong tuần lễ thứ
nhì tháng 7, mặc dầu thập tự quân
đã tìm cách chống lại lửa nầy, bằng
cách che chở đài bằng da thú vật mới
lột ra, quết đầy dấm.
Jerusalem thất thủ
Trong buổi nầy, có tin đồn là quân cứu
viện của Afdal đã lên đường. Thập tự
quân lo sẽ bị hai mặt tấn công, bèn ra
sức đánh thành.
Sử gia Ibn al Athir của chúng ta chép : "Quân
Franj có hai đài di động, một ở Siôn,
phía bắc Jerusalem, một ở phía nam Jerusalem.
Quân ta đã đốt cháy đài
phía bắc, quân lính trên
đài đều chết hết. Nhưng vừa đốt xong, thì
có lời kêu cứu từ phía nam,
vì địch quân đã lọt vô đưọc.
Đúng ra, thành bị mất là từ
phía bắc, một buổi sáng ngày thứ
sáu".
Lúc nầy, Iftikhar đang ở trong tháp David,
tháp nầy là một pháo đài
tám cạnh, rất kiên cố, nền của pháo
đài được hàn bằng chì, có
thể cố thủ được nhiều ngày, nhưng Iftikhar biết
là đã thua rồi. Địch quân đã
chiếm được khu Do thái, mọi phố đầy xác chết,
và hiện nay là chiến trận đã lan tới
bên ngoài Đền lớn. Đến trưa, không
còn chiến dấu gì nữa ở trung tâm
thành phố, cờ màu trắng của Fatimides chỉ
còn bay trên tháp David và
Iftikhar ra sức cố thủ, mặc dầu biết là không hy
vọng.
Đột nhiên quân Franj ngưng tấn công,
và một sứ giả của họ tiến tới. Sứ giả nầy đưa thơ của Saint
Gilles, tổng chỉ huy quân Franj, đề nghị là sẽ để
cho Iftikhar và toàn thể quân sĩ ra đi
thong thả, nếu chịu nộp tháp David. Iftikhar ngần ngừ,
vì đã nhiều lần quân Franj
không giữ lời hứa và chắc gì Saint
Gilles không làm như mấy người Franj trước kia. Sứ
giả tả vẽ về Saint Gilles, là một người già 60
tuổi, tóc bạc, ai cũng kính nể; nghe vậy Iftikhar
tin lời, xin hàng.
Đuốc Thiêng 96
1
Thuốc của tâm linh
- ĐTPÂ
2
Diễn văn khai mạc Đại Hội Tin
Lành Việt Nam Âu Châu lần 24 -
MS Nguyễn Văn Bình
3
Thơ : Giờ này
mình xa nhau - Vân Giang
4
Tất cả vì vinh hiển
Đức Chúa Trời - MS Nguyễn Văn Bình
5
Miên man
mùa thu - Nguyễn Đình Bùi
Thị
6
Thơ : Chỉ có
Giê-xu - Thu Thảo
7
Đời chẳng ai ngờ -
Vinh Bằng
8
Thơ : Khuyên tin thờ
Chúa - Bình Tú Ngọc
9
Xứ Do Thái hồi
Chúa Giê Xu sinh ra - Mai Đào
10 Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
11
Kỷ niệm một mùa
hè - Bà Lê Văn Bắc
12
Nhật ký chuyến đi
Âu Châu - MS Lê Cao
Quý
13
Thơ : Đừng lo lắng -
Tú Ngọc Phô
Sử gia Ibn al Athir chép :
"Quân Franj
giữ lời hứa, để choIftikhar và quân sĩ ra đi
lúc trời tối, đi về tới hải cảng Ascalon. Nhưng về
dân chúng, rất nhiều người bị giết, trong suốt một
tuần lễ, họ giết những người hồi giáo, nơi đền hồi
giáo al Aqsa, họ giết hơn 70 ngàn người".
Sử gia Ibnal Qalanissi không đưa con số, vì
không thể kiểm chứng, nhưng cũng viết
"Rất nhiều
người bị giết. Quân Franj dồn người Do thái
vào trong nhà hộ, rồi thiêu sống hết.
Họ hủy diệt cả những di vật các thánh,
phá mộ Abraham."
Trong số những đền đài bị quân Franj
phá, có đền hồi giáo Omar, đền nầy
được dựng lên để kỷ niệm vua Omar Ibnal Khattab, vua nầy
là người kế vị thứ nhì của Tiên tri
Mohamed,và vua nầy đã giải phóng
thành Jerusalem năm 638 khỏi tay người Rôma.
Thành tích nầy của vua Omar, về sau được người Ả
rập luôn luôn ca tụng, để nêu sự
khác biệt thái độ người Arập với thái
độ quân Franj. Hôm đó, vua Omar tiến
vào thành, ngồi trên con lạc
đà trắng nổi tiếng, và thượng phụ cơ đốc trong
thành, gốc Grec, đến gặp vua. Vua Omar cam kết rằng sẽ
không động gì đến tánh mạng
và tài sản của mọi người dân trong
thành, rồi yêu cầu đưa mình đến thăm
nơi thánh của đạo cơ đốc. Họ đưa vua Omar đến thăm
nhà thờ Qyama, nhà thờ mộ Chúa
Giêsu. Đang khi thăm, thì đến giờ cầu nguyện của
người hồi giáo. Vua hỏi giáo chủ là sẽ
trải thảm ra chỗ nào để vua cầu nguyện. Thượng phụ
nói là trải ra chỗ nào nơi mộ
Chúa cũng được. Vua Omar trả lời :
"Nếu
tôi làm thế, thì ngày mai
dân hồi giáo sẽ muốn chiếm luôn chỗ nầy,
vì họ nói Vua Omar đã cầu nguyện nơi
nầy". Vua Omar đem thảm ra trải ở bên
ngoài. Vua Omar đã tính đứng,
vì nơi vua trải thảm, về sau lập lên đền hồi
giáo mang tên Omar, đền còn cho tới
ngày nay. Các chủ tướng quân Franj,
than ôi, chẳng rộng lượng như thế, họ chào mừng
chiến thắng bằng cách tàn sát
tàn ác không thể tưởng tượng,
phá tan phá nát thành phố
mà họ nói rằng họ đến để bảo vệ.
Ngay cả với những người cùng một tôn
giáo với họ, họ cũng không tha.
Việc thứ nhứt của quân Franj khi tiến vào
nhà thờ mộ Chúa là đuổi ra khỏi
nhà thờ nầy, tất cả những linh mục dùng nghi lễ
đông phương. Những người nầy là gốc grec,
géorgie, arménie, copte, syrie, đã từ
xa xưa họ hành lễ theo thể thức nầy, không
có ai phản đối gì. Thấy quân Franj
hành động quá ư ngược ngạo, các
hàng chức sắc trong giáo hội đông
phương chống lại; trước đây, khi quân turc đến
xâm lăng, họ đem dấu đi cây thập tự đã
treo Chúa Giêsu khi Ngài chết. Nay
quân Franj muốn coi cây thập tự ấy, các
giáo chức không chịu cho coi. Quân Franj
không ngần ngừ gì, bắt ra tra tấn những tu sĩ lo
việc cất giấu thập tự, tra tấn cực khổ đến nỗi phải khai ra,
quân Franj liền cướp đi di vật thánh
quý nhứt ấy.
Khi quân Franj hoàn tất cuộc tàn
phá Jerusalem, giết những người hồi giáo cuối
cùng còn ẩn náu đây
đó, cướp hết mọi tài sản, thì
quân binh của Afdal đang tiến qua vùng Sinai để
đến cứu Iftikhar. 20 ngày sau khi Iftikhar đầu
hàng, mới thấy quân của Afdal ló mặt ở
Palestine. Afdal có trong tay gần 30 ngàn binh
sĩ, nhưng Afdal nghĩ rằng như thế chưa đủ để tiến công quan
Franj . Phần khác, tiếng đồn về quân Franj vừa
dũng cảm, vừa quá tàn ác
làm cho Afdal chùn tay. Y bèn
đóng quân lại trong vùng lân
cận cảng Ascalon, và gởi một phái đoàn
đến Jerusalem để dò xét ý định của
quân địch. Sử chép rằng phái
đoàn vô Jerusalem được tiếp kiến một hiệp sĩ cao
lớn, tóc dài, râu dài,
tên là Godefroi de Bouillon, chủ tướng mới của
thành Jerusalem. Phái đoàn đưa thơ của
Afdal, trong thơ Afdal trách quân Franj
không giữ lời cam kết, và đề nghị thảo luận chuyện
quân Franj rút ra khỏi vùng Palestine.
Để trả lời, quân Franj gom nhau lại cấp tốc tiến về
phía cảng Ascalon. Họ tiến mau lẹ, đến nỗi họ tới Ascalon
trước cả phái đoàn thương thuyết đang trở về
báo cáo với Afdal. Ngay từ cuộc giáp
chiến đầu tiên, sử gia Ibnal Qalanissi chép
"Quân
đội Egypte bỏ chạy, rút vào trong cảng Ascalon,
cả Afdal cũng thế. Gươm quân Franj đã thắng gươm
quân hồi giáo, họ giết hết chẳng trừ ai, cả
quân binh, cả dân sự trong thành, khoảng
một vạn người bị giết, trại quân bị cướp phá".
Vài ngày sau cuộc thảm bại nầy, Abou Saad cầm đầu
một đoàn người lánh nạn đến Bagdad kêu
than (coi Đuốc Thiêng số 90, tháng 08/2007, lời
kêu gọi khai chiến).
Abou Saad kêu gọi.
Nhắc lại là ngày thứ sáu 19
tháng 8 năm 1099, Abou Saad cùng đồng bọn tới
Bagdad, vô đền thờ (hồi giáo) lớn lúc
giữa trưa, là lúc các tín
đồ từ bốn phương kéo về đông nghẹt để
làm lễ ramadan. Trong kỳ lễ nầy, suốt một tháng,
mọi người đều phải kiêng ăn từ sáng sớm đến tối.
Nhưng Abou Saad cố tình ăn cho mọi người thấy, y liền bị
phản đối ầm ĩ, và có toán
lính kéo đến để bắt kẻ vi phạm luật lệ. Abdou
Saad thong thả đứng lên, hỏi mọi người rằng sao họ
quá quan tâm đến thế về một chuyện vi phạm nhỏ,
mà họ lại hoàn toàn thờ ơ về người hồi
giáo bị giết cả hàng vạn, về nơi thánh
bị tàn phá. Khi họ im lặng để nghe, Abdou Saad
thuật lại Jerusalem bị tàn phá cách
nào, sử gia Ibnal Athir chép
"những
người trong đoàn lánh nạn khóc,
và cả đám đông nghe rồi cũng
khóc".
Abdou Saad rời khỏi đám đông, bước vô
cung điện tiểu vương Bagdad, lúc nầy tiểu vương
tên là al Moustazhir billiah.
Tiểu vương al Moustazhir billiah có giúp
gì được Abdou Saad và đoàn
tùy tùng không? Không. Tại
sao? Khi hướng về Bagdad để kêu gọi thánh chiến,
Abdou Saad có lý, vì thời gian nầy,
Bagdad là trung tâm của một đế quốc rộng lớn theo
hồi giáo, bao gồm nhiều sắc dân. Nhưng thực tế
quá phũ phàng: tiểu vương al Moustazhir chẳng
có quyền hành. Y có tiếng
là vua của đế quốc, nhưng thực ra là vua
bù nhìn. Quyền hành của y giới hạn
trong cung điện hoàng gia, chỉ vỏn vẹn trên một
đội lính phòng vệ và vài
trăm hoạn quan. Quyền hành ở trong tay tướng Barkyaruq, anh
nầy là người Turc, chẳng nói được tiếng Arabe,
và lúc nầy, Barkyaruq đang ở chiến trường
phía bắc xứ Perse, đánh nhau với anh ruột
mình là Mohammed. Abdou Saad tay không
rời khỏi Bagdad 1 tháng sau, chẳng được gặp Baryaruq.
Về cuộc chiến tranh anh em kể trên: vài
tháng sau, Mohammed thắng, tiến vô Bagdad. Nhưng
chẳng được lâu. Tháng giêng năm 1100, y
thua chạy, Barkyaruq chiếm lại Bagdad. Cũng chẳng được lâu,
vì 2 tháng sau, y bỏ chạy, nhưng một năm sau,
tháng 4 năm 1101, y trở lại đánh bại anh
mình. Y giữ Bagdad được 5 tháng thôi,
vì đến tháng 9 năm 1101, y bị 2 người anh em
liên minh đuổi y đi, tưởng rằng phen nầy là hết
thời Barkyaruq. Nhưng không phải. Vài
ngày sau, y trở lại, nhưng chỉ được ít
ngày; qua tháng 10, y bị đánh bật ra.
Đến tháng 12, mấy anh em thỏa thuận cho y trở về Bagdad.
Tính ra trong thời gian 30 tháng, Bagdad đổi chủ
8 lần, cứ khoảng 100 ngày là đổi chủ.
Và trong thời gian nầy, những kẻ xâm lăng (tức
là quân Frankj) bình tĩnh củng cố
các thành phố họ đã chiếm được. Sử gia
Ibn al Athir than :
"Các sultan không
hòa hiệp với nhau, thành ra quân Franj
chiếm được mọi nơi".
(coi phần sau, chương 51/4 : Quân thù
chiếm đóng: từ năm 1100 đến năm 1128)