TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Đời chẳng ai ngờ - Vinh Bằng
Đuốc Thiêng 96,
tháng 8 năm 2008
(Xin xem từ Đuốc Thiêng 74)
Thế là chiều ngày 13-8-1974, tôi
và gia đình rời phi trường Tân Sơn Nhất
đi Ai Lao. Phi cơ quá cảnh ở sân bay Pnom
Pênh của Cam Bốt không lâu lắm rồi tiếp
tục cất cánh. Chúng tôi ai nấy
háo hức mong chờ. Chẳng bao lâu, phi cơ
đáp xuống phi trường Wattay, thủ đô Vạn Tượng của
vương quốc Lào lúc 9 giờ tối, ánh
đèn lấp lánh như chào mừng gia
đình truyền giáo. Chúng tôi
nghĩ là sẽ có nhiều con cái
Chúa ra tận phi trường tiếp đón chào
mừng, nào ngờ chỉ có một mình
Ông Dương Quang Trung, thủ quỹ của Hội thánh ra
đón mà thôi. Ông cho biết
đã đánh điện tín về Việt Nam cho Ủy
Ban Truyền Giáo và yêu cầu đừng đưa gia
đình chúng tôi đến Vientiane với chiếu
khán nhập cảnh dưới dạng du lịch chỉ có 15
ngày. Ông không có
ý định đến phi trường đón chúng
tôi hôm nay vì tin rằng khi được điện
tín ấy, Ủy Ban Truyền Giáo sẽ cho ngưng chuyến đi
ngay. Thế nhưng không hiểu sao, tối hôm ấy
ông cảm thấy bồn chồn đứng ngồi không yên
như có tiếng thúc giục, dù sao
thì nhà mình gần phi trường, chỉ
vài cây số thôi, cứ đến xem thử Mục sư
và gia đình có tới không?
Lòng và tâm trí
ông có sự tranh chiến mạnh mẽ liên tục,
chẳng thể chống cự được tiếng nói sâu tận trong
lòng, cuối cùng ông quyết định
lái xe đến phi trường xem sao.
Ngồi trên xe nghe ông kể làm
tôi sửng sốt. Một mặt sửng sốt vì Ủy Ban Truyền
Giáo nói là đã viết thư
báo tin rồi, có thể vì lý
do chậm trễ nào đó mà thư chưa tới
được hoặc cũng có thể thư đã lạc mất, một mặt
nghĩ rằng tôi liều lĩnh quá. Liều lĩnh đến nỗi tới
bây giờ nếu nói ra chẳng ai ngờ được. Một gia
đình gồm 2 vợ chồng và 4 con ra hải ngoại
mà trong túi chỉ có 10 đô
la! Tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi đã
trao tất cả tiền bạc tôi có cho gia
đình hai bên cha mẹ ở lại như một lời
cám ơn nuôi nấng dạy dỗ. Tôi
còn yêu cầu Ủy Ban Truyền Giáo khi gởi
tiền hàng tháng cho tôi xin vui
lòng trích ra phân nửa gởi về cho cha
mẹ tôi. Ủy Ban Truyền giáo về sau đã
làm đúng như vậy theo yêu cầu của
tôi. Tôi tin rằng Đấng đã kêu
gọi tôi vào con đường chức vụ sẽ nuôi
tôi đầy đủ hằng ngày như Ngài
đã từng nuôi tiên tri Êli tại
khe Kêrít sai chim quạ mang bánh
và thịt tới cho ăn (I Các vua 17:1-7).
Tôi cám ơn Chúa, vì nếu
Ông Dương Quang Trung không nghe tiếng thần cảm
thúc giục đặc biệt trong đêm ấy, thì cả
gia đình tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người
biết phải làm sao? Mười đô la có lẽ
chưa đủ thuê hai chiếc taxi về đến nhà thờ. Rồi
nếu không gặp ai trong đêm tối đó
làm sao vào nhà thờ được? Thời ấy chưa
có điện thoại di động thì làm sao
liên lạc kêu cứu với ai? Quả đúng như
lời tôi lo nghĩ. Ông Dương Quang Trung
đón gia đình tôi về tới nhà
thờ. Cánh cổng hàng rào nhà
thờ khóa chặt. Ngôi nhà thờ im
lìm sang sáng dưới mấy ngọn đèn đường.
Tư thất nơi Mục sư ở tối tăm không một ánh
đèn. Mọi người chung quanh dường như đã ngủ hết,
lưa thưa vài kẻ lầm lũi qua lại không tiếng động.
Trời đêm vẫn còn hừng hực nóng. Đứa
gái nhỏ bồng trên tay vẫn điềm nhiên ngủ
như không hay biết gì. Ba đứa con khác
ủ rủ ngồi cạnh vách nhà thờ như mong chờ tin vui
đến. Những con muỗi từ ống cống bay lên vo ve như vừa
chào mừng vừa xin xỏ miếng ăn. Hai đứa con của ông
Bạc Cầm Hưng (người Thái Đăm) có phận sự giữ
nhà thờ đâu được thông báo
gì về Mục sư từ Việt Nam tới, nên đã về
nhà tận làng Nong Boua Thong ở ngoại ô
thành phố. Nhà tôi và từng
đứa con nhỏ trèo rào vào bên
trong sân, còn tôi và
ông Dương quang Trung lên xe phóng về
hướng làng Nong Boua Thong.Đường vào
làng khác nào những lối mòn
nhỏ gập ghềnh. Đêm tối dầy đặc, những hàng
cây san sát bên đường cành
lá trơ trơ không thấy gió lay động như
chẳng chút động lòng trắc ẩn cảm thông
ai. Đèn xe rọi sáng ngời thấy rõ từng
con thiêu thân ập vào cửa
kính, trong khi vô số những côn
trùng có cánh khác hoảng
hốt bay rẽ sang hai bên khi thấy ánh
đèn pha sáng trưng chĩa thẳng vào, sau
đó mất dạng trong các lùm
cây. Xe trồi lên sụp xuống nghiêng
ngã, may mà không có
sình lầy nên cũng không khó
khăn lắm. Xe dừng lại. Nghe tiếng kêu, ông
bà Bạc Cầm Hưng vội thức dậy mở cửa. Ông
bà quá ngạc nhiên vì chuyện
xảy ra chẳng ai ngờ, vội vàng trao chìa
khóa nhà thờ cho chúng tôi.
Mười hai giờ khuya hôm đó chúng
tôi mới vào được nhà.
Nhà thờ Tin Lành Việt Nam Vientiane nằm ngay
góc đường, mặt tiền hướng ra đường Pnom Pênh,
cách sân vận động thủ đô chừng
vài trăm thước, song rất yên tịnh. Phía
sau là con đường Samsenthai ồn ào xe cộ qua lại,
nhưng nhờ có dãy phố nối phía sau tiếp
giáp với tư thất, nên tiếng động như có
bức tường cản lại. Khuôn viên nhà thờ
không lớn lắm, vừa đủ xây một nhà thờ
nhỏ, đủ cho 100 người tham dự các buổi thờ phượng.
Phía sau nhà thờ là tư thất Mục sư với
đầy đủ tiện nghi. Tư thất kéo dài từ bề nầy qua
hết bề kia, nằm lọt trong khuôn viên, có
hai cửa trông ra khoảng trống hai bên
hông nhà thờ. Không biết các
vùng khác thì sao nhưng
khuôn viên nhà thờ thì muỗi
nhiều lắm. Tôi nghe Năm Căn (Cà Mau) xưa nổi tiếng
muỗi nhiều quơ tay có thể hốt bắt được, trời vừa chập tối ai
nấy phải vào mùng rồi, có khi phải ăn
cơm ngay trong mùng để tránh muỗi cắn nếu
không bữa ăn sẽ bị chi phối mất ngon. Tôi
đã từng sống ở vùng quê Việt Nam, muỗi
cũng rất nhiều, nhưng so với nơi nầy, phải nói là
chưa thấm vào đâu. Dù tư thất Mục sư
có cửa lưới cản muỗi đột nhập, thế nhưng không
biết có kẽ hở nào, trời chỉ vừa chập tối,
chúng đã tràn vào cả lũ,
phải sử dụng đến thuốc xịt mới bớt đi được phần nào. Lại
còn nạn mối đục khoét kèo cột
nhà thờ và tư thất. Hàng
tháng nhân viên diệt trừ mối được
ký hợp đồng xịt thuốc, thế mà không
tài nào diệt hết được. Thuốc chỉ diệt được những
con ở bên ngoài, còn những con
rúc sâu vào kèo cột, mấy
ngày sau ngoi lên làm tổ tiếp. Con nầy
chết, con khác tiến lên. Tai họa có thể
xảy đến nếu không có đội ngũ diệt mối hằng
tháng như thế. Vậy mà nhà thờ
và tư thất vẫn trơ trơ từ năm nầy qua năm khác
không hề sụp đổ. Quả là ơn Chúa
gìn giữ.
Ngày đầu tiên tôi được sống ở Vientiane.
Ánh nắng buổi sáng ngày 14-8-1974
dù có nhẹ nhàng, song cái
nóng vẫn hừng hực. Vừa mở cửa ra, ông
bà Dương Quang Trung cũng vừa lái xe tới.
Tôi chưa hề tỏ cho ông biết chúng
tôi chỉ có 10 đô la. Thế mà
ông bà đã mang tới nào gạo,
nào nước mắm, nào bơ, nào sữa,
có cả thịt bò, thịt heo, rau cải, trái
cây chất đầy tủ lạnh. Chúng tôi
không cần phải mua gì thêm nữa. Con
cái Chúa hay tin lần hồi cũng tới chào
hỏi trong niềm sung sướng vui mừng. Người mang tới vật nầy vật
khác, chẳng bao lâu chúng tôi
không thấy còn thiếu vật gì cho
các bữa ăn hằng ngày và những đồ
dùng cần thiết khác. Tình thương của
con cái Chúa rất lớn. Tôi đã
từng thấy Ban Chấp Sự Hội Thánh Long Xuyên
yêu mến đầy tớ Chúa là thể
nào. Không có ngày
nào mà không có
vài nhân viên Ban Chấp Sự đến thăm
và trò chuyện với Mục sư, ngay cả khi Mục sư Phan
văn Tranh, Mục sư Đoàn văn Miêng hay Mục sư Nguyễn
văn Xuyến ở đó hay các Mục sư tiếp nối sau nầy
cũng vậy. Có khi họ cùng ngồi với Mục sư trong tư
thất uống trà, thăm hỏi về sinh hoạt của Hội
thánh cùng tình hình con
cái Chúa trong Hội thánh địa phương
hay các nơi khác trong nước. Có khi họ
cùng đi uống cà phê sáng với
Mục sư hay ăn cháo tối trong nhà lồng chợ. Bất cứ
lúc nào họ xong việc hay có
thì giớ là tới thăm Mục sư dù
sáng, trưa hay tối. Đời sống họ nối liền với nhà
thờ và với đầy tớ Chúa.
Tôi không thể nào quên được
bà cụ Đào Thiện Mưu, mà con
cái Chúa gọi biệt danh bà
Phán Mưu, một tín đồ Hà Nội, sang
Lào sống với con cái. Mỗi tuần chẳng những
bà tới thăm chúng tôi mà
còn trả tiền mướn một người Tày đến giặt giũ quần
áo cho chúng tôi nữa. Sau năm 1975,
bà về Sàigòn sống với con
cái. Vài lần bà sang Paris thăm con,
có tới Hội thánh Paris thờ phượng
Chúa. Tôi cũng vài lần ghé
thăm bà ở Sàigòn. Dù trăm
tuổi, nhưng bà còn khỏe lắm, có thể
ngồi xe ôm tới thăm chúng tôi khi hay
tin chúng tôi về Sàigon. Bà
được Chúa tiếp về hưởng hạnh phước đời đời trong Nước
Ngài ngày 3-11-2005 tại
Sàigòn, hưởng thọ 103 tuổi. Gương yêu
Chúa và phục vụ Chúa của bà
tôi nhớ mãi không quên. Gương
ấy khích lệ tôi nhiều hơn bất cứ bài
giảng hay nhất nào mà tôi đã
nghe. Bà tận tụy phục vụ Chúa cho tới hơi thở
cuối cùng. Con trai của bà ngày nay
đã theo gương bà phục vụ Chúa
không ngừng nghỉ. Tôi muốn nói tới
ông Đào Thiện Tằng, hiện đang ở Hội
Thánh Paris. Khi tôi đến Lào,
lúc ấy ông là đương kim Thư
ký hội thánh. Ông sốt sắng lo cho
công việc Chúa, yêu thương người phục vụ
Ngài. Ông có tâm
tình nâng đỡ đầy tớ Chúa. Tôi
ít khi thấy con cái Chúa
nào có một sự bảo trợ đầy tớ Chúa như
ông. Ngoài việc cung lương của Hội
thánh, ông còn dành tiền
riêng của mình trao cho đầy tớ Chúa
dùng khi hữu sự, lúc gia đình con
cái đau yếu cần thuốc men, hoặc khi không đủ tiền
chợ búa. Thỉnh thoảng tới thăm ông trao cho
nhà tôi mỗi lần 20 ngàn đồng
Kíp (tiền Lào) để dành cho những
khoảng chi bất thường đó. Ông sang Pháp
năm 1975 và trung tín thờ phượng Chúa
với Hội thánh cho tới bây giờ. Ông
có tài làm thơ, viết kịch, soạn lời
cho những bài thánh ca, viết và dịch
những bài nghiên cứu về lịch sử như
"Giêrusalem 4000 năm lịch sử", "Huyền thoại Môise",
"Mari mẹ Giê Xu", "Xứ Do Thái hồi Chúa
Giê sanh ra"... và nhiều bài vở
giá trị khác mà báo
Thông Công của Hội thánh Paris
(1975-1992), báo Đuốc Thiêng xưa nay đã
đăng tải góp phần nghiên cứu hữu ích
cho nhiều người.
Tôi không bao giờ quên được ông
Tạ Duy Chiên, một Chấp Sự của Hội Thánh Việt Kiều
tại Vientiane. Hầu như ngày nào khi nghỉ việc nấu
ăn cho gia đình công chức Mỹ ông đều
lái xe gắn máy tới thăm gia đình
chúng tôi. Ông bỏ tiền ra mua hoa kiểng
trồng trước cửa nhà thờ. Ông thích nhất
là cây bông bụp với nhiều loại nhiều
màu. Cành lá xanh tươi điểm
tô trắng vàng đỏ, lòng thòng
như những cái chuông treo ngược lắc lư dưới
ánh nắng gay gắt mới vui mắt làm sao!
Ông vun trồng, ông bón phân,
ông tưới nước hầu như hằng ngày. Từ khi
ông biết Chúa Cứu Thế Giê Xu,
ông đem hết lòng hết ý yêu
thương Chúa và tận tâm tận lực phục vụ
Ngài. Ông dìu dắt các con
mình trung tín với Chúa trong việc thờ
phượng, sinh hoạt thanh niên và thiếu nhi hằng
tuần của Hội thánh. Ông và
tôi như hai anh em thân thiết, sát
cánh bên nhau như anh em cùng cha
cùng mẹ. Có những sáng tôi
chưa thức dậy đã nghe tiếng gõ cửa của
ông rồi. Chúng tôi trò chuyện
thân ái, có khi đi ăn phở uống
cà phê sáng với nhau. Ông
thường mời chúng tôi đến nhà
đãi ăn trong mối thông công vui vẻ,
thân mật.