TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Xứ Do Thái hồi Chúa Giê Xu sinh ra - Mai Đào
Đuốc Thiêng 96,
tháng 8 năm 2008
Tác-giả : Roger CARATINI.
Sách : Jesus, de Bethléem à Golgotha,
Ãn bän 2003, nhà xuất bản
L’Archipel, Paris.
Trích dịch : Mai Đào.
(Xem từ Đuốc Thiêng 86)
Hiram, anh lý luận như một chính trị gia
chuyên nghiệp. Thôi cho rồi, đừng để Rôma
dính vô, chuyện làm phước dẹp đi. Nhưng
anh biết đủ mọi chuyện, thì kể ta nghe, về anh
chàng Joseph nghe tin vợ mình có thai
trong khi mình vắng nhà 4 năm, thì anh
nầy phản ứng ra sao, và các quan chức ở đền thờ
phản ứng ra sao?
Tôi xin kể quan nghe những lời người ta thuật lại cho
tôi. Nếu là ở Rome hay là ở Damas, thi
việc nầy chỉ là một chuyện tầm thường, không quan
hệ gì, vào loại "tin chó chết". Nhưng
việc nầy xảy ra ở Jerusalem, gây ra "sì căng đan"
lớn, vì cớ trách nhiệm của đền thờ trong việc
giáo dục nàng Marie. Cô nầy ở đền thờ
liên tiếp từ năm 3 tuổi đến năm 12 tuổi, trong
tình trạng tinh sạch hoàn toàn, sau
đó đền thờ long trọng trao cô nầy cho thầy Joseph
coi sóc. Thầy Joseph cam kết sẽ làm
đúng như lời hứa, là giữ Marie hoàn
toàn tinh sạch. Thầy vốn có nghề thợ mộc, phải đi
làm ăn xa, một bữa kia trở về nhà, thấy
cô Marie vợ mình đã có thai
6 tháng rồi! Thầy chưng hửng, thất vọng cùng cực,
nhiều người dân trong làng còn nhớ lại
thầy thất vọng phát khùng đến cỡ nào,
họ kể tôi nghe. Thầy thất vọng, tự đấm vào mặt,
nằm lăn ra đất mà khóc, không kể
gì đến các bạn đồng nghiệp nghe tin,
kéo đến an ủi. Thầy rên siết, vừa khóc
vừa nói: "Làm sao tôi có thể
ngước mặt lên nhìn Đức Chúa Trời? Đền
thờ giao Marie cho tôi hoàn toàn trinh
tiết, mà nay tôi không giữ được trinh
tiết của nàng! Ai là người đã
làm chuyện lộn xộn nầy, đã làm
nàng ô uế? Phải chăng là con rắn, như
xưa kia nó đã xúc phạm Ađam trong khi
ngủ?". Sau đó, thầy đứng dậy, kêu Marie lại: "Em
được Đức Chúa Trời yêu dấu chiều chuộng, tại sao
em làm như vậy? Tạo sao em phản bội Thượng Đế? Tại sao em
chất bùn lên linh hồn em?". Marie vừa
khóc, vừa trả lời là nàng vẫn tinh
sạch, chẳng hề đến gần một người nam nào. "Vậy của
quý ấy trong bụng em, từ đâu mà đến?".
"Em thề trước Đức Chúa Trời, là em chẳng biết đến
từ đâu". Thầy Joseph suy nghĩ phải đối phó
cách nào. Giấu nhẹm ư? Không được,
làm thế thầy sẽ bị kể là đồng lõa, vi
phạm luật Môise. Trình làng, tố
cáo Marie ư? Tố cáo thì Marie chết
là cái chắc. Nhưng nếu cái thai
là do thiên sứ tác động, thì
nàng vô tội, và thế là một
người vô tội bị giết, càng thê thảm hơn!
Coi cung cách của Marie, thì đúng
là nàng vô tội, nàng đang
thổn thức trước mặt thầy, thề rằng nàng vẫn tinh sạch, rằng
nàng chẳng hề gần người nam nào hết, rằng
nàng chẳng hiểu tại sao có chuyện nầy.
Rồi sau đó Joseph và Marie thưa dần
khóc lóc, nhưng phải tính chuyện tương
lai. Joseph phải trình bày cho Đền thờ, phải thề
rằng mình cũng như Marie không hề làm
chuyện bậy bạ. Các linh mục ở Đền thờ bèn thử
thách, bắt Joseph và Marie uống nước
thánh, kẻ nào thề láo mà
uống nước thánh sẽ bị vật ngã chết.
Không thấy họ hề hấn gì, các linh mục
sai họ đi sống trong đồng vắng (sa mạc). Từ đồng vắng, họ trở về
bình an, yên ổn. Thầy tế lễ cả đành
tuyên bố: "Nếu Đức Chúa Trời không buộc
tội hai người, tôi cũng không buộc
tội.’’ Hai người vui vẻ trở về nhà
mình, tôn vinh danh Đức
Giêhôva, Chúa của dân
Ysơraên.
Hiram thuyết trình xong cho Marcellus, nhìn lại
chẳng thấy Joseph, Marie và con lừa đâu nữa. Hiram
theo đại lộ tìm dấu vết, tìm hỏi với những
dân Do thái từ Galilê đến để
làm kiểm tra. Sau cùng, gặp được vài
người có biết anh thợ mộc Joseph, họ cho biết rằng mục
đích của Joseph là phải đi về Bethlehem, để ghi
vào sổ tên mình, tên Marie
và tên hai đứa con trai của vợ trước,
tên là Jude và Samuel.
Trong hang đá ở Bethléem
Bếtlêhem, thị trấn lịch sử! Theo huyền thoại thì
vua David sanh ra ở đây. Nhưng dù là
nơi sinh của vua nào mặc kệ, Bethlehem chỉ là một
làng nhỏ. Joseph phải rời đại lộ Jerusalem, rẽ
vào một con lộ nhỏ, đặt Marie ngồi trên con lừa,
Jude giữ cương dắt lừa, Samuel lững thững theo sau, Joseph hăng
hái dẫn đầu mặc dầu đã già, chập chập
quay mặt lại nhìn Marie. Đôi khi y thấy Marie
buồn, chắc là vì cớ mang thai. Đôi khi
lại thấy Marie mỉn cười vui. Joseph tò mò muốn
tìm hiểu vì đâu mà sắc mặt
Marie thay đổi mau như thế. Marie trả lời :
Anh yêu ơi, là tại em quan sát hai
người con trai của anh, rồi em hình dung ra hai
dân tộc. Một dân tộc khóc lóc
và than thở, và một dân tộc vừa vui
mừng vừa ca tụng. Dân tộc thứ nhứt, là
dân Israel, đang đi xa Đức Chúa Trời.
Dân tộc thứ hai, là dân ngoại
giáo, họ thong thả tiến gần lại Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời há chẳng hứa với Abraham, tổ phụ
của chúng ta là "tất cả các
dân tộc trên đất sẽ nhờ Abraham mà được
phước?" (Sáng thế 18:18).
Marie nói vậy, nhưng rồi nàng kêu đau
bụng.
- "Anh Joseph, mau đỡ em xuống lừa, đứa con trong bụng đang chuyển,
nó muốn đòi ra".
Joseph đỡ vợ xuống lừa, dẫn nàng vô trong một hang
đá của dãy núi ở dọc đường đi,
cách con lộ không xa. Hang đá tối om,
nhưng khi Marie bước chân vô, hang đá
sáng trưng lên như có mặt trời soi tới.
Nhiều người còn kể rằng rất lâu về sau, hang
đá cứ luôn sáng rực, ngày
cũng như đêm. Joseph giao cho hai con trai trông
chừng Marie, mình đi ra làng Bethlehem để kiếm
cô mụ.
Joseph đột nhiên có hiện thấy kỳ lạ.
Chàng đi, nhưng có cảm tưởng là
chân mình không cất bước.
Chàng hướng mắt lên trời nhìn chim bay,
chim bay mà không thấy chim vỗ cánh.
Nhìn xuống khắp cánh đồng, thấy có một
máng cỏ cho bò ăn, thấy có một
đám công nhân nằm dài như
đang ăn, nhưng chân tay họ không nhúc
nhích, có bánh trong miệng
mà không thấy họ nhai. Thấy một mục đồng
cùng với đàn chiên, nhưng cả
chiên và mục đồng cứ đứng yên một chỗ.
Thấy mấy con dê nhỏ cắm mũi xuống suối, nhưng không
thấy chúng uống.
Hai bà Zabel và Salomé
Và đột nhiên, thấy tất cả mọi thứ có sự
sống linh động, đúng lúc đó thấy một
phụ nữ từ trên núi đi xuống, hỏi :
- Ông đi đâu?
- Tôi đi kiếm một phụ nữ hộ sanh người Do thái.
- Ông có phải là dân Israel
không?
- Phải, tôi là dân Do thái.
- Người đàn bà sắp sanh con ở trong hang
đá là thế nào với ông?
- Là vị hôn phu của tôi.
- Không phải vợ sao?
- Không. Cô Marie nầy sống từ nhỏ trong Đền thờ Đức
Chúa Trời cho đến năm 12 tuổi. Đền thờ rút thăm
nhằm tôi để cô ấy làm vợ tôi,
nhưng vẫn chưa làm vợ. Đứa con mang trong bụng cổ
là trái của Thánh Linh.
- Đúng như lời ông nói sao?
- Bà vô mà coi.
Phụ nữ hộ sanh nầy tên là Zabel, đi theo Joseph
tới hang, bao bọc ngoài hang lúc nầy
là một vầng mây sáng. Khi hai người tới
cửa hang, vầng mây rút đi, có
ánh sáng rực rỡ từ trong hang chiếu ra,
sáng rực rỡ đến nỗi Joseph và Zabel phải nhắm mắt
lại để khỏi bị lóa mắt. Đột nhiên ánh
sáng biến đi, thấy một em bé đang bú
vú mẹ là Marie. Joseph tiến tới nói :
- Tôi đưa về đây bà Zabel, phụ nữ hộ
sanh, bả đang đứng trước hang, vì sợ bị lóa mắt.
Marie nghe nói vậy, thoáng mỉm cười.
- Đừng vội cười, Zabel đến để khám nghiệm em, và
coi em có cần bả giúp gì
không?
Marie miệng không ngừng mỉm cười, mời Zabel bước vô
khám nghiệm.
Zabel khám nghiệm rồi hét lên :
- Lạy Chúa tôi! Chưa hề có thầy thuốc
nào từng thấy chuyện nầy, hay là từng tưởng tượng
ra. Coi nầy, mẹ mới sanh con, mà vú đã
đầy ăm ắp sữa, em nhỏ vừa mới sanh ra mà chẳng nhơ bẩn,
chẳng vướng máu, mẹ sanh con ra mà chẳng đau đớn
gì! Đây là gái đồng trinh
đã sanh con, sanh con rồi mà vẫn còn
đồng trinh!
Zabel quá xúc động, bước khỏi hang, gặp
bà Salomé, một phụ nữ hộ sanh khác,
bà nầy thấy cửa hang có vầng mây
sáng nên tiến đến coi có chuyện
gì kỳ lạ.
- Salomé, Salomé, nghe chuyện kỳ lạ nầy: một
gái đồng trinh vừa mới sanh con, nhưng vẫn là
đồng trinh!
- Làm gì có, tôi tin sao
được, trừ phi chính tôi khám nghiệm.
Salomé lại gần Marie: Xin cho tôi khám
nghiệm vì chuyện chị Zabel kể rất là quan trọng.
Marie vẫn mỉm cười, cho phép Salomé
khám nghiệm. Salomé đưa bàn tay mặt
vô để khám, như thông lệ của
các phụ nữ hộ sanh Do thái, nhưng khi
rút tay ra, bàn tay đột nhiên
khô queo lại, như thể vừa bị lửa đốt cháy.
Salomé kêu lớn quỳ xuống, và cầu khẩn
Đức Chúa Trời :
- Lạy Đức Chúa Trời của tổ phụ con, xin Chúa
thương xót con, cứu giúp con. Con vẫn
luôn luôn kính sợ Chúa, con
vẫn chăm sóc những người nghèo mà
không hề đòi họ phải trả tiền công, con
không bao giờ lấy tiền bà góa
và trẻ mồ côi, con không bao giờ để kẻ
đói khát vô nhà con
mà phải ra đi tay không, hôm nay con bị
tàn tật vì con không tin, xin
Chúa trả lại bàn tay cho con, trả con cho những
người nghèo, để con chăm sóc họ.
Người ta kể lại rằng lúc đó trước mặt
Salomé giáng xuống một thiên sứ đầy dẫy
ánh sáng, thiên sứ nói :
-Salomé ơi, Chúa Toàn năng
đã dựng nên mọi vật, Ngài đã
nghe lời chị cầu xin và nhậm lời chị. Chị hãy đưa
bàn tay khô lại gần em nhỏ, ẵm nó trong
tay. Em nhỏ nầy là Đấng Cứu Thế, là Jesus của tất
cả mọi người đang trông chờ.
Salomé tới bên em nhỏ, đụng vào vải bọc
em, bồng em trong tay và nói :
- Tôi thờ lạy Ngài cho đến khi tôi chết,
vì Ngài được sanh ra để làm vua
Israel.
Nói xong thì tay Salomé được
lành.
Người ta cũng kể rằng trong đêm ấy, là
đêm Cứu Chúa sanh ra, có một
ngôi sao thần thật lớn, chiếu sáng rực rỡ cả
đêm từ đầu hôm tới sáng, sáng
đến nỗi làm mờ hết mọi sao xung quanh.
Các mục đồng. Các bác sĩ
phương đông. Siméon và Anne.
Trong đêm ấy, có các mục đồng được
thiên sứ báo tin rằng Cứu Chúa
đã sanh ra (xin coi Kinh thánh, sách
Luca đoạn 2).
Và sách Mathiơ đoạn 2 kể về các
bác sĩ từ phương đông đến thờ lạy "vua
dân Israel mới sanh". Về các bác sĩ
nầy, tác giả nói là họ đến từ xứ Perse
(Ba tư). Và tác giả chép sự cố sau
đây :
Khi đã thờ lạy Chúa Jesus rồi, trước khi từ
giã, Marie tặng cho họ làm kỷ niệm một
cái tã lót đã bọc em nhỏ.
Khi các bác sĩ về tới xứ Perse, họ
trình tã lót nầy cho vua xứ Perse
và các thầy tế lễ. Mọi người làm lễ
long trọng đón nhận món quà,
và theo tục lệ cổ truyền, họ đốt lửa, quăng chiếc
tã vô lửa. Khi lửa đã tàn,
họ thấy chiếc tã còn nguyên,
không bị đốt và dân Perse
kính trọng giữ gìn chiếc tã nầy như
một báu vật.
Tác giả cũng kể chuyện đến ngày thứ
tám sau khi sanh, Joseph và Marie đem
dâng Chúa Jesus nơi Đền thờ, gặp ông
Siméon và bà Anne (coi sách
Mathiơ).
(Chú thích: tác giả kể tỉ mỉ những
chuyện nầy, nhưng vì đã được chép
trong Kinh Thánh nơi các sách Mathiơ
và Luca, nên dịch giả thấy không cần
nói thêm)
Marcellus băn khoăn
Trong dinh thự ở Jerusalem, Marcellus quan khâm sai của
hoàng đế Rôma, chắp tay sau lưng, đi đi lại lại.
Hiram, vẫn được Marcellus giữ Hiram làm cố vấn cho
mình, đang ngồi gần cửa.
Marcellus băn khoăn về các bác sĩ đến từ Perse.
Phải chăng họ là thám tử? Lại khó hiểu
về tin đồn có một Đấng Cứu thế mới sanh ra cách
lạ lùng, sanh bởi người nữ cứ còn đồng trinh. Y
là ngoại đạo, chẳng tin có Đức Chúa
Trời, chẳng tin phép lạ, nhưng y nghĩ rằng không
có lửa thì làm sao có
khói. Y nói toạc ra những điểm băn khoăn thắc mắc
trong lòng :
- Hiram ơi, những truyện tích về điềm báo trước,
về trẻ em sanh cách lạ lùng, ta cho qua hết
và anh chàng Joseph chỉ là kẻ
quá ngố, bị lừa mà không biết. Nhưng
điểm làm ta phải suy nghĩ, là tên
mà họ đặt cho con trẻ mới sanh ra. Danh từ nầy nghe như
là một mật hiệu để quy tụ nhau. Cứu Chúa, Cứu
Chúa, nghĩa là thế nào? Dân
Do thái cần được cứu khỏi cái gì, khỏi
tay ai? Khỏi tay người Perses? người Arabes nabatéens? người
Rôma? Và tại sao họ bắt đầu kêu em nhỏ
ấy là "dòng đõi David", hoặc
là "vua dân Do thái"? Phải chăng
là ở xứ Giuđê đang có một tổ chức quốc
gia kín giấu, tổ chức nầy kiếm cách quấy đảo dư
luận, lôi kéo quần chúng chống lại
Rôma, nhân lúc nầy vua Herode sắp chết?
- Không phải là điều không thể
có. Từ khi Hérode đau nặng, có rất
nhiều người ngấp nghé nắm chính quyền. Trước hết
là Archelaüs, kẻ kế tự chính thức.
Bên cạnh đó là các em y. Rồi
có các thầy tế lễ, các địa chủ
giàu, các chủ ngân hàng, ...
- Ta không phản đối anh, vì đúng
là có những người nầy. Nhưng nắm chính
quyền ở Palestine đâu phải là chuyện dễ, chỉ cần
vài nhát dao là đủ đâu! Phải
có một đạo quân, tối thiểu là để chống
lại quân binh từ Rôma đến. Quân
Rôma vẫn sẵn sàng đến, nếu có đại sự.
Bổn phận của ta là lo đoán trước đại sự,
nên ta băn khoăn về các danh từ ấy, nào
Cứu Chúa, nào Jesus, nào...
- Quan cũng sợ một đứa bé mới sanh 8 ngày hay
sao?