Phân
loại thực vật - Dr Trương Hoàng Lâm
Đuốc Thiêng
102,
tháng 05 năm 2010
1. Tại sao con
tàu Nô-ê?
Con tàu Nô-ê là một
khái niệm cho sự
sống còn sau cơn đại hồng thủy do một nhóm người
đã được lựa chọn và chỉ định. Một biểu tượng về
an
toàn cho kẻ nào hy vọng thoát được cơn
đại hoại
đang tăng cao và được đến bên kia bờ của sự cứu
thoát.
Hình ảnh của con tàu Nô-ê
ngày
hôm nay là sự đe dọa các sinh vật
trên
Trái Đất. Chúng ta cần phải cứu vớt
các sinh vật
cùng chung sống đang bị hăm dọa do sự tàn
phá cảnh
quang thiên nhiên, chất độc và
rác thải của
nền văn minh và năm này sang năm khác
tiếp tục hủy
diệt các loài.
Không phải chỉ bảo tồn và cứu vớt mà
còn
phân biệt, duy trì và đạt sự thỏa
mãn tinh
thần. Thời Cựu Ước nhiệm vụ của Ông Nô-ê
là
lựa chọn một cặp cho mỗi loài thú, tuỳ theo
loài.
Nhiệm vụ nầy gây ra nhiều vấn đề. Làm sao con
người lập
tiêu chuẩn và định nghiã các
loài
thú, kê khai trong sự đa dạng của
chúng. Vậy
loài là gì?
Rộng hơn nữa nhà phân loại học có thể
đặt ra
câu hỏi là làm thế nào để
đưa các
sinh vật vào một loài giống nhau để sau
đó
vào một trật tự cao hơn.
Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện hữu và
tìm một con đường để đem sự ngổn ngan vào một
hình
thể rõ ràng để phân chia, nhận định
và đặt
tên.
Các cây, bụi, chim, cá đòi
hỏi một sự xác định, mỗi sinh vật đều có
tên gọi.
Bài nầy chỉ giới hạn về thực vật nếu không
thì bài sẽ quá dài.
2.
Phân loại thực vật
2.1. Lịch sử
Trong giai đoạn đầu mỗi quốc gia phân chia cây cối
theo
cách khác nhau và người ta cũng chưa
biết đề ra
các nguyên tắc và phương
pháp phân
loại do đó phân loại thực vật cũng chưa
thành một
môn khoa học.
Ở nước cổ Hy lạp Theophraste (371-286 TC) là người đầu
tiên mô tả khoảng 500 loài cây
phân ra
cây lớn, cây nhỏ, cây sống trên
cạn, cây
sống dưới nước, cây có lá rụng
hàng năm hay
thường xanh, cây có hoa hay cây
không hoa.
Sau đó là Plinius thuộc cổ La mã
(79-24 TC)
đã mô tả gần 1000 loài cây
nhưng chú
ý nhìn đến cây làm thuốc,
cây ăn
trái.
Linné (1707-1778) với bản phân loại được xem
là
hoàn hảo của các hệ thống phân loại,
Linné
đề nghị cách gọi tên cây bằng tiếng La
Tinh gồm 2 từ
ghép lại và ngày nay ai ai cũng đang
sử dụng.
Ở Việt Nam nhiều công trình nghiên cứu
về phân
loại thực vật với một số tác giả như: Tuệ Tĩnh, năm 1417
đã mô tả 579 loài cây
làm thuốc.
Lê Qúy Đôn (thế kỷ XVI) đã
phân chia
thực vật thành nhiều loại: cây cho hoa, cho quả,
cây
ngũ cốc, rau, cây loại mộc, cây loại thảo,
cây mọc
theo các mùa khác nhau. Thời
Pháp thuộc,
người Pháp đã đến Việt Nam nghiên cứu
và để
lại nhiều công trình như Loureiro mô tả
gần 700
loài cây; công trình lớn nhứt
của H. Lecomte
mô tả các cây từ Dương xĩ đến Thực vật
Hạt
kín của toàn Đông Dương.
Từ 1954 đến nay Phân loại học càng được
chú
ý với công trình của Phạm
Hoàng Hộ:
"Cây cỏ Việt Nam", ngoài ra có nhiều
nghiên
cứu về Rong biển Việt Nam, Tảo học v.v.
2.2. Nguyên tắc
Phân loại học
Từ xưa việc phân loại các sinh vật chỉ
có mục
đích xếp chúng theo một trật tự để có
thể dễ
dàng tra cứu. Nhưng mục đích nầy quá
hạn hẹp
nên phát triển mục đích mới đem lại cho
khoa học
nhiều kiến thức quan trọng cho biết loài nầy gần
loài
kia, có họ hàng với nhau và cho biết
phương hướng
tiến hóa của các loài.
Phân loại đơn giản: dựa theo những đặc tính
bên ngoài dễ nhận biết:
số tiểu nhụy (Staubblatt, étamine), hình dạng
tiểu nhụy
cây dạng gỗ lớn, nhỏ, cây 1 năm, 2 năm hay nhiều
năm.
Phân loại tự nhiên: xếp gần nhau các
loài
giống nhau: không lá mầm, một lá mầm,
hai lá
mầm. Hai lá mầm có thể chia ra: hoa
không
cánh, hoa cánh rời, hoa cánh
dính.
Các đơn vị phân loại: loài, giống, họ,
bộ, lớp, ngành.
Loài
(Art, espèce): đơn
vị cơ bản, toàn bộ các cá thể sinh vật
được
phát sinh từ một tổ tiên chung, có khả
năng phối
với nhau tạo ra các thế hệ con cháu với những dấu
hiệu
sinh thái-sinh lý chung, sống trong những khu
phân
bố nhất định và có sự phân biệt giữa
loài
nầy với loài khác nhờ tính
không lai tạo
được.
Trong một loài ta có nhiều thứ
(Varietät,
variété): thí dụ loài chuối
ta có
các thứ chuối cau, chuối xiêm, chuối lá
v...v...
-Giống (Gattung, genre):
các loài giống nhau, như là anh với
em, thuộc về cùng một giống.
-Họ (Familie, famille):
bao gồm các giống có đặc tính giống
nhau nhất.
-Bộ (Ordnung, ordre):
là đơn vị phân loại cao hơn, bao gồm
các họ gần nhau.
-Lớp (Klasse, classe):
bao gồm nhiều bộ có những đặc tính giống nhau
nhất.
-Ngành (Stamm
hoặc Abteilung, race): là đơn vị phân
loại lớn hơn, bao gồm nhiều lớp.
2.3. Danh pháp
khoa học
Theo Linné mỗi loài thực vật có danh
pháp
đôi bao gồm tên giống (Gattung, genre) ở phần đầu,
tiếp đến
là tên loài (Art, espèce)
sau cùng
là tên tác giả (người đã
phát hiện
và đặt tên loài cho cây
đó).
Thí dụ: Cây cẩm chướng có tên
là Dianthus caryophyllus L.
-Tên giống:
Dianthus
-Tên
loài: caryophyllus
-Tên
tác giả: Linné
(tên tác giả được viết tắt, sau đó
có dấu
chấm: Linné được viết tắt là L.).
2.4. Thời kỳ sau
Linné
Phân loại theo Linné rất đơn giản, rõ
ràng
và khoa học nên các nhà thực
vật theo
đó mà xếp loại. Mỗi người có quyền tự
do đặt
tên theo ý cá nhân
mình thí dụ
Aristotelia (theo Aristotales, một triết gia Hy lạp) là
tên của 1 cây hoa lài ở Chí
lợi giống
Elaeocarpaceae, Goethiea theo Goethe (một thi sĩ người Đức) thuộc giống
Malvaceae, Bismarckia theo Bismarck (một chánh trị gia người
Đức) cho cây cọ ở Madagascar giống Palmae, Napoleona theo
Napoleon (hoàng đế nước Pháp) cho cây
bông
đẹp ở Tây Phi Châu thuộc giống Lecythidaceae,
Darwinia theo
Darwin (một nhà khoa học người Anh) cho cây thuộc
giống
Lepto-sparmaceae, Halleria theo Albrecht von Haller (thi sĩ,
bác
sĩ, thực vật học tại Göttingen) cho cây thuộc giống
Scrophulariaceae, Hertia theo Hert (thực vật học người Đức) cho
cây thuộc giống Compositaceae, Salvinia theo Salvini Antonio
Maria (thực vật học người Ý) cho giống Salviniaceae,
Victoria
reginae theo Victoria (nữ hoàng người Anh) cho
loại nong
tằm giống Nymphaceae, cúc Zinnia theo Johann Gottfried Zinn
(bác sĩ và thực vật học) cho cây thuộc
giống
Asteraceae v...v... Ernst Haechel (sinh thái học) đặt
tên
cho 1 loài thủy mẫu (Qualle, méduse)
mà ông
phát hiện là Annasetkia (theo tên vợ
của
mình Anna Sethe), một loài thủy mẫu
khác tên
Rhopilema frida, tên của 1 phụ nữ rất gần ông
là
Frida von Uslar-Gleichen v...v...
Nói chung tên của các loài
phải được Ủy Ban Danh Pháp (Nomenclature Commission) đồng
ý.
3.
Phân chia thực vật
Hiện nay thế giới chia thực vật làm 2 nhóm lớn:
thực vật
bậc thấp (Thallobionta) và thực vật bậc cao (Kormobionta)
với
một số ngành (Abteilung; race) chính. Sự
phân chia
đó dựa vào sự có mặt của tản (Thallus)
và
chồi (Kormus). Thực vật hạ đẳng là một nhóm cổ
hơn cả
xuất hiện cách đây 1.500 triệu năm còn
thực vật
thượng đẳng xuất hiện cách đây 500 triệu năm
và
phát sinh ra từ thực vật hạ đẳng.
Bản tra đơn giản các ngành lớn:
I. Thực vật
không có rễ, thân, lá
phân hóa (Thallus): thực vật bậc thấp.
1/ Đơn bào, không diệp lục: đó
là vi
trùng (Bakterien). Đây là
nhóm sinh vật tiền
nhân (Procaryota). Vi trùng có
hình
tròn, que hay xoắn, sinh sản theo cách
phân
đôi tế bào, một vài loài di
chuyển bằng roi.
Vi trùng đâu đâu cũng có mặt
nhưng
chúng hoạt động ở nơi ẩm ướt và gắn liền với
các
chất hữu cơ để sống, đó là sinh vật dị dưỡng
(heterotroph), nhưng một vài loài sống độc lập
(tự dưỡng,
autotroph) nhờ các chất vô cơ. Dưới tư
cách sinh
vật phân hủy (Destruente, décompositeur)
chúng giữ
một vai trò quan trọng trong nhiều hệ sinh thái.
Ngành khuẩn lam (Cyanobakterien) có vị
trí đặc
biệt, nhờ chất diệp lục chúng làm quang hợp như
các loài cây. Khuẩn lam thường sinh ra
độc tố, chỉ
có một số ít cá sử dụng một số khuẩn
lam để ăn.
2/ Đơn bào hay đa bào, có diệp lục:
nhóm
rong (tảo, alge). Rong sống khắp nơi, chỗ nào có
nước,
ánh sáng và chất khoáng.
Nhờ năng lượng mặt
trời chúng tạo ra thức ăn và cũng
chính thức ăn
nầy là lương thực cho các sinh vật
khác. Có
khoảng 20.000 loài, từ loài nhỏ nhất
là
ngành rong silic (Diatomae), 6.000 loài đến rong
biển
dài trên 100 m. Rong thường sống ở trong
nước mặn
hoặc nước ngọt, trôi nổi tự do trong lớp nườc ở
trên mặt,
có trong thành phần của các sinh vật
phù du
gọi là sinh vật nổi (Plankton), các sinh vật
giống như
thực vật được gọi là thực vật nổi (Phyto-plankton),
các
sinh vật giống như thú được gọi là động vật nổi
(Zooplankton). Thực vật nổi dùng năng lượng mặt trời qua
quang
hợp để tạo thức ăn, thực vật nổi là móc đầu
tiên
của nhiều chuỗi thức ăn.
Các nhà sinh học xếp rong đơn bào
thuộc về sinh
vật đơn bào (Protesta) còn các rong đa
bào
thuộc về thực vật. Nhiều loài rong sống bám hay
nằm tự do
dưới đáy nước hay hồ. Nhiều rong sống trên cạn
(trên
đất, lá hay thân cây v.v...), nhiều
loài vừa
sống trong môi trường cạn vừa sống trong môi trường
nước.
Theo màu sắc và cấu trúc cơ thể
khác nhau
các nhà khoa học chia ngành tảo
thành một
số ngành riêng biệt, hiện nay vẩn chưa thống nhất.
Người ta có ngành rong nâu (Phaephyta)
1.500
loài, ngành rong đỏ (Rhodophyta),
ngành rong lục
(Chlorophyta), 8.000 loài và các
ngành
khác.
3/ Đa bào không diệp lục: nhóm nấm
(Fungi),
chúng giống như các loài cây
nhưng sống
khác biệt. Nấm không có lá
và
không sử dụng ánh sáng mặt trời nhưng
chỉ lấy thức
ăn từ những chất chết hay sống. Nhóm nấm có
100.000
loài. Cơ thể của nấm, trừ một số ít là
đơn
bào (thí dụ men bia) còn đa số
là những sợi
nấm (Mycel). Các loài nấm có hệ sợi
nằm trong cơ
chết (đất, gỗ mục, xác thực vật...), chỉ có cơ
quan sinh
sản mang bào tử (Spore, spore) mới ở trên mặt cơ
chết.
Ngành nấm có thể được chia ra làm 6
lớp: lớp nấm
cổ (Chytridiomycetes), lớp nấm trứng (Oomycetes), lớp nấm tiềp hợp
(Zygomycetes), lớp nấm túi (Ascomycetes), lớp nấm đảm
(Basidiomycetes), lớp nấm bất toàn (Deuteromycetes).
Đối với con người nấm đóng một vai trò quan
trọng: một số
nấm tiết ra chất kháng sinh, được sử dụng trong y học (nấm
Penicillium, Aspergillus), một số khác được dùng
làm thuốc như nấm cựa gà (Claviceps purpuria)
có
alcaloid chữa cầm máu tử cung, đông
trùng hạ thảo
(Cordiceps sinensis) được dùng chữa ho trong Đông
y, đau
xương mõi gối, thuốc bổ, nấm phục linh (Poria cocos)
làm
thuốc bổ, lợi tiểu. Một số loài là thức ăn ngon
như nấm
hương, nấm rơm, nấm mối, men bia... Nấm chứa 30-40% protein, 1-2%
lipít, 10-15% hydratcacbon.
Tác hại của nấm cũng rất lớn. Những nấm ký sinh
gây
bệnh ở động vật, người và các cây trồng
như
lúa, bắp, bông, trà, cao su,
cà phê,
cam, quýt. Nhiều loài nấm làm hư thức
ăn,
phá hại gỗ, quần áo. Một số nấm rất độc, khi ăn
phải
có thể bị rối loạn tiêu hoá,
tê liệt thần
kinh. Ngộ độc nhiều có thể gây chết. Vậy
không
nên ăn nấm lạ.
Địa y (Flechten, lichens) là cộng sinh giữa nấm
và rong,
chung sống với nhau thành một cơ thể thống nhất
có những
đặc tính hình thái, sinh
lý, sinh
thái riêng. Nấm trong địa y là những
nấm sợi thuộc
lớp nấm túi, chỉ một số ít là nấm đảm;
còn
rong là rong lam hoặc rong lục đơn bào. Nấm
có
nhiệm vụ cung cấp nước và các chất vô
cơ để rong
làm quang hợp tạo thành chất hữu cơ
dùng cho tập
thể, ngược lại nấm bảo vệ cho rong khỏi bị khô. Nhờ
hình
thức cộng sinh nầy địa y có thể sống trong mọi điều kiện
khác nhau, từ các vùng cực lạnh
Trái Đất
đến các vùng sa mạc nóng
cháy.
Người ta thường thấy địa y trên thân cây,
trên
các tảng đá trong hình thức những lớp
da, những
vảy hay sợi có màu xanh xám hay
nâu
xám. Địa y có 3 dạng: địa y dạng vỏ, địa y
hình
lá và địa y hình cành. Về
cấu tạo địa y gồm
những sợi nấm kết chằng chịt với nhau xung quanh các tế
bào nấm.
Địa y được dùng làm vật chỉ thị (Indikator) cho
độ
ô nhiểm môi trường; địa y có khả năng
hấp thụ
các loại kim loại nặng. Địa y dùng để chế rượu,
làm thuốc trị ho, đau bụng, bệnh phổi, được dùng
để chế
thuốc nhuộm (đỏ, xanh, vàng, lục ). Địa y còn
là
thức ăn (Cladonia rangiferina) của các loài hươu
Bắc cực.
II. Thực vật
có rễ, thân lá (Thực vật bậc cao).
Đây là thực vật không còn
sống dưới nước
và chuyển lên cạn, cho nên có
một sự
hình thành những đặc điểm mới tiến hoá
hơn so với
thực vật bậc thấp. Phần lớn cơ thể thực vật bậc cao có sự
biến
đổi rõ ràng các cơ quan như rễ,
thân,
lá. Mỗi cơ quan có chức năng riêng,
phù hợp
với đời sống mới. Trong môi trường nầy thức ăn đi từ đất
(nước
và các chất hòa tan) được đưa
vào trong
cây nhờ hệ thống rễ (trong khi ở môi trường nước,
thức ăn
hoà tan trong nước có thể được trực tiếp đưa
vào
cơ thể thực vật). Rễ còn giúp cây đứng
vững trong
đất. Lá làm quang hợp biến chất vô cơ
thành
hữu cơ. Thân làm nhiệm vụ nâng đỡ
lá
và vận chuyển thức ăn. Cơ thể phân chia
thành nhiều
cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan đều có cấu tạo
khác
biệt với nhiều loại mô (Gewebe, tissu), quan trọng nhất
là
mô dẫn. Mô dẫn đem nước và
chất hoà tan
từ rễ lên lá và dẫn các chất
hữu cơ do
lá chế tạo đưa đến các bộ phận của cây
để
nuôi cây. Ngoài mô dẫn thực
vật còn
có mô bì và mô cơ:
mô bì
che chở, bảo vệ cây khỏi những tác động của
môi
trường như nhiệt độ, độ ẩm, gió, ánh
sáng v.v...
Mô cơ nâng đỡ cây. Tất cả các
cơ quan
và loại mô ngày càng
phát triển
giúp cho thực vật bậc cao thích ứng với
môi trường
trên cạn, trong khi đó các đặc điểm nầy
gần như
chưa có hay chưa hoàn thiện ở thực vật bậc thấp.
Thực vật bậc cao gồm những ngành sau: ngành
Rêu
(Bryophyta), ngành Dương xĩ (Pteridophyta), ngành
Hạt
trần (Gymnospermatophyta)
Ngành Hạt kín (Angiospermatophyta). Hai
ngành đầu
thuộc nhóm có bào tử (Spore, spore), 2
ngành cuối (Hạt trần và Hạt kín) thuộc
nhóm
có hạt.
1/ Không có mạch dẫn: ngành
Rêu (Bryophyta):
ngành thực vật cấu tạo rất đơn giản, chưa có
mô dẫn
để hút nước. Đại diện cho ngành rêu
là lớp
Rêu sừng (Anthro-ceropsida) cơ thể là một bản dẹp,
rễ giả
để bám vào đất ẩm, lớp Rêu tản
(Marchan-teopsida)
thường mọc ở chỗ ẩm, bờ sông, bờ suối, chân tường
ẩm;
rêu sừng, rêu tản thuộc về nhóm
rêu địa tiền
(Lebermoose; liverwort), có 6.000 loài. Lớp
Rêu
(Bryopsida) trên 14.000 loài, phân bố
rộng
rãi khắp nơi, thường là chỗ ẩm ướt,
thân gồm 1 trục
ngắn mang nhiều lá dẹp xếp xoắn.
2/ Có mạch dẫn
a/ Không có hạt, đó là
ngành Khuyết
(Pteridophyta) gồm Thông đá (Bärlapp;
lycopode):
cây không bông, lá mọc theo
vòng
tròn xung quanh cây, thông đá
giống như
rêu, mọc nơi ẩm ướt, thông đá thuộc
ngành
Lycopophyta, thân bò trên mặt đất với
nhánh
thẳng đứng, có 1.000 loài; Thông đất
(Lycopodiella
cernua) dùng làm thuốc trị ho trong
Đông y;
ngành Cỏ tháp bút (Schachtelhalme,
prèle):
cây không hoa, nhánh mọc theo
vòng
tròn quanh thân cây, cây giống
như bàn
chải, mọc nơi ẩm ướt; ngành Sphenophyta sinh sản bằng
bào
tử hay rễ. Đọt không nhánh, có
ít hoặc
không có diệp lục, 15 loài. Dương xĩ:
cây
không nhánh, 11.000 loài, thuộc
ngành
Pteridophyta, lá được chia ra nhiều lá nhỏ hơn,
phía dưới lá có bào tử.
Thường dương xĩ mọc
nơi ẩm ướt vùng nhiệt đới.
b/ Có hạt, gồm ngành thực vật hạt trần
và
ngành thực vật hạt kín. Ngành hạt trần
là
thực vật đầu tiên (Gymnospermatophyta), ngày nay
nhiều
loài đã chết chỉ còn khoảng 600-700
loài,
hầu hết tập trung trong lớp Thông, tuy vậy chúng
đóng vai trò quan trọng trong thảm thực vật của
vùng ôn đới. Thực vật mà hạt
không được che
kín trong noản (Samenanlage, ovule). Hạt nằm lộ ra
ngoài
nên gọi là Hạt trần. Do đó khả năng
thích
nghi với môi trường vẫn chưa hoàn thiện, dễ bị
tác
động của nhiệt, độ ẩm, ánh sáng v.v... Thực vật
hạt
kín (Angiospermatophyta) phân bố khắp
cùng
Trái Đầt từ sa mạc cho đến vùng núi
cao lạnh lẽo.
Cơ quan sinh sản là hoa, hạt được giữ trong quả
phát
triển từ bầu hoa (Fruchtknote, ovaire) nên gọi là
Hạt
kín. Như vậy Hạt kín hoàn
toàn thích
ứng với điều kiện bên ngoài nên
có mặt khắp
nơi trên thế giới và có số lượng rất
lớn với
250.000 loài gồm 2 lớp (Klasse,classe): lớp 1 lá
mầm
và lớp 2 lá mầm.
Sau đây là một thí dụ về phân
loại thực vật:
4. Kết luận
Đức Chuá Trời dựng nên loài người như
hình
Ngài, Ngài dựng nên người nam cũng như
người nữ...
Bởi vậy cho nên người nam sẽ lià cha mẹ
mà
dính díu cùng vợ mình
(Sáng 1:27;
2:24 ).
Vậy tín hữu Tin lành có tổ
tiên là
Adam và Eva, 2 người nầy do Đức Chúa Trời tạo
dựng,
chúng ta là con của Đức Chúa Trời.
Phước cho người
nào biết kính sợ Đức
Giê-hô-va (Thi
Thiên 112:1).
Vào muà hè chúng ta mua một
bó
bông đem về chưng trong phòng khách;
hoa tỏa ra
mùi thơm và màu sắc làm đẹp
căn
phòng. Nhưng sự huy hoàng sẽ nhanh
chóng qua đi:
lá sẽ tàn úa, màu sắc mất
vẻ hào
nhoáng, bông sẽ cụp xuống, cành hoa sẽ
gãy
và cuối cùng bó bông đi
vào
thùng rác. Cũng giống như vậy, một tấm
hình đang
đầy sự sống và bây giờ là cảnh khốn
cùng.
Cành gãy không những chỉ gặp ở
các
bông tàn héo mà cũng thấy ở
con người, với
nhiều lý do: chương trình đi vào bế
tắc, hi vọng
tiêu tan, người khác gây tổn thương, bất
hạnh, mất
sức lực v...v...
Kinh Thánh cũng có nhiều đoạn giống như vậy. Phần
đông các đoạn đó xuất phát
từ nhiều thời
gian khó khăn và do nhiều nhân vật diễn
tả. Một
nhà tiên tri có nói: Người
sẽ chẳng bẻ
cây sậy đã giập và chẳng dụi tim
đèn
còn hơi cháy (Ê-Sai 42:3).
Cái gì
đã rớt mọi người cũng hay chà đạp lên
nhưng Người
không giập cây sậy và không
dụi tim đèn
còn hơi cháy. Đó là
hành động của
Đức Chúa Trời đối với chúng ta và
Ngài cũng
muốn chúng ta làm như vậy đối với kẻ
khác.
5.
Tài liệu tham khảo
1/ Rainer Flindt: Biologie in Zahlen. Spektrum Akademischer Verlag, 2000
2/ Genaust Helmut: Etymologisches Wörterbuch der botanischen
Pflan-zennamen. Birkhäuser Verlag, 1983
3/ Hoàng Kiến Dân, Trường Phong: Chuyện hay thực
vật. NXB Trẻ, 2000
4/ Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam. Mekong
Printing, 1991
5/ McKeever Susan: Wunder der Natur. Ravenburger Buchverlag, 1998.
Đuốc
Thiêng 102
01
Kho
tàng vô giá - ĐTPÂ
02
Thơ: Kinh
Thánh là lời Đức Chúa Trời -
Tam Hải Trình Hữu Lân
03
Kinh
Thánh là gì ? -
Thánh Thơ Công Hội
04
Kinh
Thánh nói về tái lâm
và tận thế
- Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Điều gi
là quan trọng nhất trong cuộc đời -
Bình Tú Ngọc
06
Thơ: Đi với
Chúa - Tuyết Vân
07
Đấng ban sự
sống
- Mục sư Trần Hữu Thành
08
Thơ: Ấm
áp
- Võ Chánh Tiết
09
Tiểu sử
Thánh Ca: "Vì Giê-xu sống"
- Fanyia
10
Thơ: Cẩn
thận làm theo lời Chúa - Trần
Nguyên Lam Bửu
11
Phục vụ
Chúa - Mục sư Nguyễn Văn Bình
12
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
13
Xứ Do
Thái khi
Chúa Jêsus khởi sự công tác
- Mai Đào
14
Phân
loại thực vật
- Dr Trương Hoàng Lâm
15
Tôi
là mẹ - Bà Lê Văn Bắc
16
Tin Tức
1/2:
Tin Vắn Khắp Nơi & Việt Nam và Hải Ngoại
- Vinh Bằng
17
Tin Tức
2/2:
Hội Thánh Paris và Giáo Hạt
Pháp & Liên Quan tới Đuốc Thiêng
- Vinh Bằng