Đặc san báo Đuốc Thiêng - Chủ bút Mục sư Nguyễn Văn Bình

Xư Do Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng tác - Mai Đào

Đuốc Thiêng 103, tháng 11 năm 2010


“
Tác-giả: Roger CARATINI.
Sách: Jesus, de Bethléem à Golgotha, ấn-bản 2003, nhà xuất-bản L’Archipel, Paris.
Trích-dịch: Mai-Đào.

Chương 9: Người tiền-phong (tiếp theo)

Marcellus hỏi Hiram:
-Anh còn muốn gì nữa, Hiram? Bây giờ mà có tiên-tri, thì hỏi tiên-tri đòi gì nữa?   

-Có thể là đòi tự do.

-Người Do-thái còn muốn tự-do thứ nào? Tự-do được bị cai-trị nữa bởi một vua Hérode, hay bởi một Archélaus?
-Thứ tự-do này muốn không còn thấy người ngoại-giáo ở trên đất thánh Ysơraên.

-Thế nghĩa là ở đất Giu-đê không còn thấy người Rô ma nữa, bất cứ là quan tổng trấn, là quan thâu thuế, hoặc là quân binh, phải thế không?

-Dạ... đúng thế.

-Nếu mọi sự được như thế, thì chuyện gì sẽ xẩy ra, anh biết không? Chuyện sẽ xẩy ra ngay lập tức, nếu ta nói là trong nháy mắt thì hơi quá lố, nhưng cũng đâu đấy. Chẳng lâu gì, đất thánh Ysơraên như anh nói, sẽ bị người Parthes xâm chiếm, họ sẽ đạp tan Ðền thờ Thánh của các anh, sẽ loại trừ các thầy tế lễ, các thầy thông-giáo của các anh, rồi nơi tất cả các thành phố, họ sẽ thiết lập việc thờ phượng thần Mitra, sẽ phát triển giáo lý zoroastrisme, và sẽ bắt tất cả mọi nguời Do thái làm nô lệ.

-Thưa tướng công, chẳng phải thế, xưa kia khi dân chúng tôi bị đầy ải ở Babylone, chính là họ đã đến giải cứu dân chúng tôi.

-Không, không; đánh bại quyền lực Babylone hồi đó, không phải là người Parthes, mà là người Perses (Phe rơ sơ), mục đích của họ không phải là giải phóng các anh, nhưng là mở rộng bờ cõi đất đai. Dân Parthes ngày nay là dòng dõi của dân Perses, cũng vẫn có tham vọng này, và giờ đây, nếu quân đội Rô ma không có mặt ở Ðông phương, chắc chắn là người Parthes đã chiếm hết vùng Syrie, vùng Phénicie, vùng Palestine, và cả Egypte nữa, và bắt tất cả dân các vùng này phải làm nô lệ cho họ, Hi ram ơi, kể cả anh, cả gia đình anh nữa; khốn khổ thay cho anh bạn Hi ram của ta nếu lâm vào tình cảnh này. Bởi vì anh là người kỉnh kiền, anh hãy cầu nguyện với Ðức Giê hô va, xin Ngài cứ để cho dân Ysơraên được ở dưới sự bảo hộ của Rô ma, tức là Ngài dành cho họ số phận tốt nhất đó. Hãy cứ nhìn xem số phận của dân Gaulois: từ ngày tướng César đến đất họ, họ chẳng còn lo sợ gi về nỗi bị dân mọi rợ Germains xâm chiếm. Này Hi ram ăn thịt chim cút này, thấy ngon không?

-Ngon đặc biệt, thưa tướng công. Xin nhà bếp cho một bình rượu vang đỏ nữa, để chúc mừng thêm cho "Pax romana".

Du ngoạn sông Giô đanh

-Hi ram, tuần tới anh sẽ đi du ngoạn phương nào?

-Tôi sẽ đi đến sông Jourdain (Giô đanh), tướng công có muốn đi không, tướng công vẫn thích con sông này mà.

-Không, ta không có thời giờ. Ta đang đọc dở dang thi tập của Ovide, một tác phẩm hay vô cùng, bạn của ta ở Rô ma mới gởi tới. Nhưng tại sao anh hỏi ta có đi không, chúng ta đã cùng tham quan nhiều lần rồi mà?

-Bởi vi từ ít lâu nay, nơi sông này, có một số người lạ kỳ.

-Lạ kỳ thế nào?

-Chuyện lạ kỳ này, không thể giải nghĩa bằng một đôi câu. Phải thấy tận mắt mới tin được. Tướng công khoan đọc tập thơ, sáng mai đi với tôi, tướng công sẽ thấy đáng đồng tiền bát gạo.

-Có xa Jerusalem không?

-Cách khoảng hai giờ đi ngựa, ta sẽ đến vùng Pérée, trong sa mạc Giu đa, giữa vùng núi, gần thành Jéricho (Giê ri cô). Nay là bắt đầu mùa đông, thời tiết dễ chịu, cả đi cả về chừng một ngày đường mà không mệt, dầu cho 60 tuổi như tôi...

-Và cũng như ta nữa, tuổi chúng ta xấp xỉ nhau. Ta sẽ ra đi khoảng giờ nào?

-Ngay từ sáng sớm.
                                        -----

Sáng sớm hôm sau, hai kỵ sĩ lên đường, vui vẻ như thủa họ còn trai trẻ; họ do "Cửa Ðẹp" (Porte Dorée) đi ra ngoại thành, đi ngang trũng Xết rôn (Cédron), băng qua núi Ô li ve (mont des Oliviers), nơi chân núi này có một trang trại nhỏ, trong có trồng nhiều cây và có một bàn ép nước nho, dầu nho, rồi lấy con đường dẫn tới làng Bê tha ni (Béthanie). Ra khỏi làng này, họ vô một thung lũng vừa đen vừa tối - Marcellus đưa nhận xét rằng thung lũng kiểu này phải là tổ ăn cướp - rồi từ chỗ này, họ leo núi xuống đồi dẫn đến Jéricho, từ đây bắt đầu sa mạc Giu đê. Họ dừng chân trên một mỏm núi dốc đứng trên sông Giô đanh, từ đây Marcellus nhìn xuống sông với sóng nước đục ngầu vì đầy bùn, chảy thẳng tới Biển Chết (Mer Morte) ở phía xa xa, mặt biển im lìm lóng lánh phản chiếu mặt trời.

Sông Giô đanh không phải là một ranh giới khó vượt gìữa các vùng hai bên, bên tay mặt là Galilée, Samarie, Judée, Idumée, bên tay trái là Pérée, Gaulantide,v.v., vì có nhiều quãng băng qua được dễ dàng, một quãng hai kỵ sĩ sẽ tới là Bethabara.

Trên bờ sông nơi làng Bethabara, đã có một đám đông người,  họ chẳng mấy chú ý tới hai kỵ sĩ này. Họ gồm đủ thứ người, đàn ông, đàn bà, trẻ em, nhóm này nhóm kia bàn tán nói năng lao xao ầm ỹ, tiếng ồn ào chen với tiếng sông.

Những kẻ đoạ đầy ở thế gian

Hai kỵ sĩ ngồi riêng dưới bóng cây, quan sát đám người xanh xao, hốc hác, gầy gò, không biết từ đâu tới, lao xao giao động bốn phía, chạy ngược chạy xuôi chẳng có lý do.

Hi ram nghiêm giọng nói:
-Tướng công thấy họ không, họ là những kẻ đọa đầy ở thế gian.

-Thế là nghĩa làm sao?

-Hết thảy họ đều bị lạc đường, bị hư mất, chẳng phải lạc mất trong sa mạc xứ Giu đa, nhưng trong sa mạc của cuộc sống. Kẻ thì nghèo tiền bạc, kẻ thì đau ốm, kể thì khổ tâm, tất cả đều khổ cực thiếu sống so với tình trạng của mình; họ cứ băn khoăn chẳng hiểu mình sống trên thế gian để làm gì.

-Ô hay, sao đến nỗi thế?

Họ tự đặt câu hỏi về số phận mình, đa số đều là nghèo khó, và hầu hết muốn kiếm một người hướng đạo, người này sẽ chỉ cho họ đường phải đi trong cuộc sống, cho họ biết sống để làm gì, và biết cuộc sống khổ cực sẽ đưa họ đến đâu.

-Vậy họ tới đây, là sa mạc, phải ăn châu chấu (cào cào) rang để mà sống, họ tưởng rằng sẽ tìm ra câu trả lời ư?

-Dạ, đúng thế.

-Tại sao đúng, Hi ram?

-Bởi vì từ mấy tháng nay, có tin đồn rằng nơi sa mạc này có dấy lên một tiên tri, lời nói của tiên tri này làm yên lòng cả những người thất vọng nhứt.

-Một tiên tri?

-Thưa tướng công đúng thế, một tiên tri, một người đã nhận được thần cảm như thể các tiên tri đã từng có nhiều thuả xưa, và từ 500 năm qua không thấy xuất hiện, đây là một sứ giả của Ðức Giê Hô Va.

-Trời đất ơi, họ điên hết rồi sao mà nghĩ như vậy?

-Thưa tướng công, trong lòng mỗi người dân Do thái đều ghi nhớ lời của các đấng tiên tri từ thủa xưa, bởi vì luôn luôn những lời này đuợc nhắc lại trong Ðền thờ, trong các nhà hội, cả trong các công viên, các nơi công cộng nữa. Và những lời thường được nhắc lại nhứt, là những câu cuối của Thánh Kinh, lời của đấng tiên tri cuối cùng là Ma la chi (Malachie), làm cho họ được ấm lòng: "Ðức Chúa các đạo binh phán: Vì này, Ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng, không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bịnh. Các ngươi sẽ đi ra và nhảy chồm lên như bê xổng chuồng. Các ngươi sẽ chà đạp những kẻ gian ác, vì chúng sẽ như bụi đất dưới bàn chân các ngươi vào ngày Ta hành động". (Malachi 3:19-21).

-Trí nhớ của anh hay quá, hoan hô.

-Ðâu có gì đặc biệt đáng khen, bởi vì ở nhà hội (synagogue) chúng tôi nghe đọc Ma la chi mỗi ngày.

-Ô hay, anh đi nhà hội mỗi ngày cơ á?

-Thưa tướng công, tôi là người tin đạo. Nay già rồi, sắp chết, đôi khi tôi tự hỏi là chết rồi sẽ ra sao. Cũng giống như một người đau bịnh lấy thuốc phiện đuổi xa cơn đau, tôi dùng tôn giáo để hết lo lắng. Những người kia, họ đã đi ngày này sang ngày khác để đến Bethabara, tướng công ơi, là để nghe tiếng đấng tiên tri kêu vang trong đồng vắng của Giu đa, tiếng ấy đem lại cho họ hy vọng và tin tưởng.

-Vậy người phát tiếng nói của Ðức Giê Hô Va tên là gì?

-Tên là Giăng (Jean), con trai của bà Elisabeth (Ê li sa bét), bà này là bà con với Ma ri. Cha của Jean là Zacharie (Xa-cha-ri), thầy tế lễ thượng phẩm, ông này chết đã lâu.

-A, Jean, ta nhớ anh này. Anh Jean này sanh ra hai hay ba tháng trước Jesus.Cha anh Jean này trở nên câm - ta chẳng nhớ vì sao - về sau nói được khi viết tên con lên một cái bảng nhỏ. Thế là Jean học hành tiến bộ rồi trở nên tiên tri, phải không?

-Tướng công ơi, tướng công là ngoại giáo cực độ, và tướng công muốn ngạo tôi nữa. Tướng công biết rằng không ai "trở nên" tiên tri, nhưng tiên tri phải là do Thượng Ðế định trước. Trước đây khoảng 30 năm, khi thiên sứ đến thăm Zacharie để thông tin rằng do quyết định của Thượng Ðế, bà Elisabeth, vợ ổng, sẽ không còn hiếm hoi nữa mà sẽ mang thai, sẽ sanh một con trai, thiên sứ cũng đã nói rằng con trai ấy do quyết định trước của Thượng Ðế để làm việc tập hợp dân Ysơraên, nói như sau: "Em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi ở trong lòng mẹ, em đã đầy dẫy Thánh Linh. Em sẽ đưa nhiều con cái Ysơraên về với Ðức Chúa là Thiên Chúa của họ. Ðược đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ  Ê li, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về lối chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn lòng đón Chúa". (Lu-ca 1:15-17).

-Chuyện Zacharie ba hồi bị câm, ba hồi lại nói được, có thiệt không?

-Thiệt chớ, tại vì Zacharie không tin lời thiên sứ, nên bị phạt phải câm, câm cho đến khi đặt tên cho con.Tướng công thấy như thế rồi, bây giờ hết nghi ngờ quyền năng của Thượng Ðế chưa? Nếu chưa, thì hôm nay hãy coi hành động của Jean ở Bethabara, những hành động lạ lùng này chỉ làm được khi có Thượng Ðế linh cảm.

-Y làm cái gì mà lạ lùng? Nói với những người đã mất hết hy vọng, thì suốt ngày từ sáng đến tối, y chỉ lặp đi lặp lại rằng phải cầu nguyện với Thượng Ðế, phải thờ phượng Ngài, phải xin Ngài tha tội, phải ăn năn xám hối, phải chờ ngày tận thế, chờ những thiên tai khủng khiếp, động đất, núi lở, v.v. Mấy thằng cha thầy bói cũng nói vậy thôi.

-Thôi thôi tướng công cứ nói giọng không tin, mà coi kià, Jean đang tiến đến, mau lại nghe y nói.

-Ðám đông vây tròn lại quanh một người cao lênh khênh, gầy gò, xanh xao, coi giống như một người mới bị treo cổ với nước da xám xịt. Jean bước chậm chậm, mình mặc áo dài sù sì làm bằng da lạc đà, thắt lưng bằng giây cỏ, chân không có giày, tay cầm cây gậy trắng, quấn quanh đầu là manh vải trắng tựa như nón (mũ) keffieh của dân Bédouin, dưới nón thấy tóc dài xuống quá vai.

Giăng Báp tít xuất hiện

Truyện tích sau đây về thời thơ ấu của Jean, thấy ghi trong cuốn ngoại kinh "Eloge de Jean Baptiste" (Khen ngợi Giăng Báp tít), trang 136, tác giả là Jean Chrysotome, thượng phụ ở thành phố Constantinople.

Truyện kể rằng Jean sanh ra khoảng 9 hay 10 tháng trước khi vua Hérode ra lịnh thảm sát các em bé vô  tội. Joseph và Marie thì đem em bé mình trốn qua Egypte; Elisabeth thì đem Jean trốn vào sa mạc, lúc đó Jean chưa đầy 1 năm tuổi. Bà bị quân lính của vua Hérode đuổi theo gần kịp khi chạy đến trước một núi đá. Kinh hãi quá, bà kêu lớn "Núi ơi, cứu mẹ con tôi" Núi mở ra cho hai mẹ con bước vô một hang đá, rồi đóng chặt lại.

Hang đá là nơi trú ẩn lâu ngày cho hai mẹ con. Khi Elisabeth phải ra ngoài để kiếm lương thực, hoặc những thứ cần dùng khác, núi mở ra và đóng lại như thể cửa phòng; mùa hè hai mẹ con được hưởng không khí mát dịu của hang, mùa đông không bị lạnh giá, cứ như thế nhiều năm; về sau khi giang sơn của vua Hê-rốt bị chia cắt, mẹ con di cư sang ờ xứ Pérée, phía bên trái sông Giô đanh, lúc này nằm dưới quyền vua Antipas.

Ðã từ mấy tuần lễ rồi, tức là từ cuối tháng 12 năm 780 lịch Rô ma, triều đại Tibère năm thứ 15, dân chúng Do thái, và vài người ngoại quốc được nghe tiếng nói của Jean nơi bến Bethabara, cũng kêu là Béthanie, họ rủ nhau đến nghe, mỗi ngày một đông thêm.

Marcellus hỏi Hi ram:
-Bây giờ Jean đến đây rồi, là sẽ có chuyện gì?

-Jean sẽ cất tiếng kêu vang trong sa mạc.

-Anh nói gì kỳ quặc vậy?

-Ðấy là cách nói của chính Jean ; hầu hết các buổi truyền giảng của Jean đều bắt đầu bằng câu: Tôi là tiếng kêu vang trong sa mạc.

-Tại sao?

-Bởi vì khi Jean khởi sự truyền giảng, có lẽ là vào hồi tháng trước, các giảng sư ở Ðền thờ được tin là có sự truyền giảng trái phép (vì không xin phép với Ðền thờ), bèn sai một phái đoàn đi điều tra, phái đoàn gồm những người Lê vi rất chi ly, những người Pha ri si rất khôn ngoan. Phái đoàn điều tra rất khôn khéo khi đến bến Bethbara, cũng kêu là bến Béthanie. Họ hỏi Jean:

-Anh có phải là Ðấng Mê-si-a không? Phải chăng anh là Ðấng được xức dầu, do Thượng Ðế sai đến để đem ơn cứu cho chúng ta?

-Không, không phải, Jean trả lời.

-Vậy phải chăng anh là tiên tri Ê–li, xưa kia được xe bằng lửa cất lên trời, nay đến để rao truyền rằng Ðấng Mê–si-a sẽ đến?

-Cũng không, tôi chẳng phải là tiên tri Ê–li.

-Vậy anh là ai? Xin nói cho chúng tôi biết, để chúng tôi trình lại với những người đã sai chúng tôi đi. Chính anh nói anh là ai?

-Tôi là tiếng của người kêu vang trong sa mạc: "Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi, như ngôn sứ Ê–sai đã nói".

Hi ram hăng hái giảng giải tiếp cho Marcellus, rằng Jean không ngừng dạy dỗ những người đến Bethbara:
-"Ðám đông hỏi Jean rằng: Chúng tôi phải làm gì đây? Jean trả lời: Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy. Cũng cớ những thầy thâu thuế đến chịu phép báp tem và hỏi Jean: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? Jean bảo họ: Ðừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh. Binh lính cũng hỏi Jean: Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? Jean bảo họ: Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình". 

Marcellus hỏi:
-Y chẳng nói gì hơn nữa sao? Sao y chẳng cảnh báo hãy coi chừng ngày tận thế, hãy coi chừng Gog và Magog (Gót và Ma gót). Chẳng than khóc về những điều bất hạnh của Ysơraên? Chẳng kết án ai, chẳng rủa sả ai?

-Nói tiên tri kiểu đó, là những tiên tri xưa, từ Ê–sai  đến Xa- cha-ri, vừa than khóc vừa nói tràng giang đại hải về chuyện bị đầy ải qua Babylone, chuyện Ðất Thánh bị ô uế, chuyện Ðền thờ xưa bị huỷ phá, v.v. ôi chao bao nhiêu là thứ…

-Hi ram, nói đây mà nghe giữa anh với tôi, rao giảng như thế chẳng kết quả gì bao nhiêu, dân Ysơraên đã chịu khổ cả ngàn năm qua rồi. Tôi muốn kết luận rằng nào tiên tri, nào lời cầu khẩn, nào của tế lễ, đều chẳng phải là phương pháp tốt để làm cho dân sung sướng. Tôi là người ngoại giáo, ý kiến tôi là chính con người phải là kẻ xây dựng hạnh phúc cho mình, chớ không phải Trời. Không phải tự xưng mình là dân được tuyển lựa như kiểu dân Giu đa, cũng không phải xưng mình là cao cấp hơn các dân khác như kiểu dân Rô ma. Con người tự mình có thể đạt đến hạnh phúc. Tôi thích kiểu anh Jean, khuyên những thính giả rằng nên kềm hãm lòng tham muốn, nên sống hoà thuận với mọi người xung quanh.

-Từ xưa, Môi se cũng đã dạy như thế: Anh em không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm.

-Các hiền triết xứ Grèce (Hy lạp) ngày xưa cũng từng dạy như thế, mà chẳng cần phải phụ thuộc luân lý của họ vào thần nào, thánh nào.

-Ôi, ôi, tướng công Marcellus, ngài thiệt là ngoại giáo bất trị.

-Ta là ngoại giáo chính cống, nhưng anh chàng Jean ăn chấu chấu rang kia, ta lại thích anh ta, ta khâm phục anh ta... kià anh ta sắp nói, mọi người có vẻ lắng nghe.

Lời giảng dạy của Jean

Trên bến Bethbara, mọi người im lặng, làm nổi bật tiếng nước sông Giô đanh lào xào chảy về Biển Chết. Jean giơ cao cây gậy trắng, vừa vung vẩy vừa nói vang vang, Marcellus ngồi ở khá xa nhưng cũng nghe được. Con người "kêu vang trong đồng vắng" giơ gậy chỉ vào đám hòn đá ở chân núi xung quanh,và dám nói như sau với những người Do thái:

-"Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và  đừng vội nghĩ  bụng rằng: chúng ta đã  có  tổ  phụ  Áp-ra-ham vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá  này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.

Marcellus ghé vào tai Hi ram, nói thì thầm:
-Anh Jean con của Zacharie ăn nói kiểu này, nếu nói ở sân Ðền thờ, thì dẫu là con của thấy tế lễ thượng phẩm cũng bị ném đá chết tươi, về tội phỉ báng dân tuyển của Thượng Ðế, lại còn đe dọa chặt gốc chặt rễ...

Hi ram gật đầu:
-Tướng công nói đúng, đây là vùng Pérée, chẳng có người Pha ri si, chẳng có người zélote, nếu có mấy người này thì tiêu tùng rồi.

Lời tuyên bố này cũng nghịch với quyền lợi của Rô ma, bởi vì có thể mở đầu một cuộc nổi loạn gây rối nhiều hơn, mạnh hơn là cuộc nổi loạn do Judas và Matthias gây ra cách đây 20 năm. Ta chắc rằng quan tổng trấn Pilate, qua trinh sát của mình, đã biết hết những lời lẽ của Jean, và sẽ không cho Jean vô Jerusalem; nếu lén lút tới, thì lập tức bị tống cổ về Bethbara, nơi đây thuộc quyền Antipas, để Antipas xử trí. Hoàng đế đã ra lịnh cho Pilate, là ở xứ Giu đê, phải không được có rối rắm nào.

Ngay lúc này, thấy đám đông giao động mạnh. Marcellus ngưng nói, hỏi Hi ram:
-Có chuyện gì thế? Buổi truyền giảng hết rồi sao?

-Dạ đúng, hết truyền giảng rồi, và bây giờ là Jean làm báp tem cho một số người tin nhận.

-Báp tem? Cũng giống như đạo thờ thần Mitra ở xứ Perse? cũng giống như đao thờ thần Isis đang thịnh hành ở Rô ma?

-Thưa tướng công, giống mà không giống. Ở Perse, khi làm bap tem chongười tin nhận, thì đem dìm người ấy vào trong máu bò đực, để kỷ niệm việc thần mặt trời đã giết bò đực, lấy máu tưới lên đát, cho đất được phì nhiêu; dĩ nhiên đây là chuyện thần thoại ngoại giáo. Ngược lại, nơi một số người Do thái, tỉ như những người thuộc giáo phái Esséniens, họ tắm trong nước, nước thánh. Họ coi việc tắm trong nước thánh là nghi lễ rất quan trọng trong đời sống thuộc linh, quan trọng chẳng kém gì lời cầu nguyện, hay việc kiêng ăn ngày sa bát.

Bởi vì co những tiên tri đã dạy rõ ràng: tiên tri Ê sai nói "Hãy rửa sạch, tẩy cho hết". Tiên tri Ê-xê chi ên đã rao lại lời của Ðức Giê hô va: "Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và tà thần". Thân thể là chỗ đứng của linh hồn, vậy người tin nhận phải rửa sạch cả thân thể khi rửa sạch linh hồn.

Marcellus kinh ngạc, sao Hi ram lại thông suốt, uyên bác như thế về tôn giáo, về hiểu biết Kinh Thánh. Ba chục năm trước đây, anh chàng nhỏ con này đến gặp mình ở Damas để làm hướng dẫn viên, và cũng là lái buôn thịt, thế mà nay thông hiểu còn hơn cả một rabbi.

-Ô kìa, sao mà trời đã chiều rồi, phải mau trở về Jerusalem, còn phải cưỡi ngựa đi lần dưới ánh trăng. Tuy nhiên, Marcellus còn ngạo Hi ram:
-Này rabbi Hi ram, Jean làm báp tem, thì cách thức ra sao? Chắc là đem dìm người ta xuống nước sông; và để họ ở trần không quần áo, hay là khoác lên người một tấm vải? Sẽ đọc lời cầu nguyện, đọc câu thần chú? Hay là có khi không dìm xuống nước sông, mà chỉ đổ một vò nước lên đầu?

-Thưa tướng công, tôi không biết. Tôi chưa từng thấy khi nào, bởi vì đám đông quá đông, như chính tướng công cũng thấy đấy kià. Ðến lúc này, chắc Jean đã làm báp tem cho được khoảng 15 người rồi ;mà xung quanh Jean có cả hai ba ngàn người. Chịu thôi, không biết được, chỉ có thể tưởng tượng thôi.

-Vậy thì chúng ta sẽ tưởng tượng, sẽ mơ màng. Nào, lên ngựa, Hi ram.

Ðêm hôm đó, đoàn người Do thái ở Bethbara gây cho Marcellus khó ngủ. Sao mà họ sùng đạo, kỉnh kiền đến thế. Họ bỏ qua Ðền thờ dát vàng thêu bạc rực rỡ, bỏ xa các thầy tu, thầy giáo, họ bỏ mặc các nghi lễ trang trọng từ ngàn xưa, họ đến đây đột nhiên khám phá ra một cách mới để sống và yêu mến Thiên Chúa, do một tiếng nói vừa thô sơ vừa cương quyết, rao truyền không phải sự vâng lời kinh Torah cách mù quáng, sự kiêu hãnh mình là một nhánh của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng truyền rằng hãy hăng hái bầy tỏ đức tin mình qua hành động nhu mì, qua công tác từ thiện. Ôi, sứ mạng cao đẹp thay, cách mạng mới mẻ thay cho nhân loại, dầu là Do thái hay Rô ma, nếu được rao truyền rộng rãi. Nhưng mà anh chàng Jean Báp tít này chỉ mang ảo mộng thôi, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, con người vẫn luôn luôn là sói rừng với con người. Ðiều cần phải dạy, ngay từ khi mới nằm nôi, không phải là tình yêu thương người lân cận, mà là yêu thương tổ quốc, vâng phục cảnh sát công an.

Với kết luận vừa đơn sơ vừa thực tế này, Marcellus ngủ tít, nhủ lòng là sáng mai và những ngày tiếp theo sẽ trở lại Bethbara, để thâu thập đầy đủ hơn những dữ kiện đang xẩy ra trên bờ sông Giô đanh.


Đuốc Thiêng 103

01 Tâm trí con người; - ĐTPÂ
02 Thơ: Xin Chúa sai con đi - Đức Huy
03 Người được Chúa sai đi - Mục sư Nguyễn Văn Bình
04 Người đàn bà ở Thêcôa - Bà Mục sư Nguyễn Văn Bình
05 Tiểu sử Thánh ca: "Giê-xu Đấng hằng yêu thương tôi" - Fanyia
06 Thơ: Yêu Chúa - Trần Nguyên Lam Bửu
07 Tìm hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther - Diệp Dung
08 Điều rất cần cho chúng ta - Mục sư Trần Hữu Thành
09 Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
10 Một vài loài cây có độc tính - Dr Trương Hoàng Lâm
11 Vật đổi sao dời - Bà Lê Văn Bắc
12 Xứ Do Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng tác - Mai Đào
13 Tin Tức - Vinh Bằng