Tìm
hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther
- Diệp Dung
Đuốc Thiêng
103,
tháng 11 năm 2010
Martin
Luther là một tu sĩ thuộc tăng đoàn Augustin, một
nhà thần đạo uyên bác, một
lãnh tụ can
trường của cuộc cải chánh Giáo Hội Công
Giáo
La Mã thế kỷ XVI tại Đức Quốc. Martin Luther sanh
ngày 10
tháng 11 năm 1483, tại làng Eisleben, Thuringia,
Đức Quốc.
Thời niên thiếu, Martin Luther học trường đạo từ tiểu học cho
đến khi tốt nghiệp trung học.
Năm 18 tuổi, Martin Luther vào Đại học Erfurt. Năm 22 tuổi,
Martin Luther tốt nghiệp đại học với bằng cử nhân văn khoa.
Sau
đó, Martin Luther theo học luật khoa để chiều theo
ý muốn
của cha mẹ.
Vào mùa hè năm 1505, Martin Luther về
thăm
nhà, trên đường trở lại đại học xá,
ông bị
sét đánh suýt chết. Sau lần chết hụt
này,
Martin Luther cảm thấy cuộc đời của con người quá mỏng manh,
nên ông quyết định bỏ ngành luật khoa để
vào
học ở tu viện Augustin tại Erfurt.
Sau hai năm tu học, Martin Luther được truyền chức linh mục khi vừa
được 24 tuổi. Đến năm 25 tuổi, Martin Luther được Viện Đại Học
Wittenberg mời làm giáo sư dạy môn vật
lý
và triết học.
Qua năm sau, ông đặc trách dạy môn thần
đạo
và giải nghĩa Kinh Thánh. Đến năm 29 tuổi, Martin
Luther
đoạt được bằng tiến sĩ thần đạo của Viện Đại Học Wittenberg.
Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần đạo, Martin Luther tiếp tục dạy
môn thần đạo tại Viện Đại Học Wittenberg. Trong
lúc
nghiên cứu để giảng dạy các sách của
Kinh
Thánh như Thi thiên, Rô-ma và
Galati, Martin
Luther khám phá ra lẽ đạo cứu rỗi là
chỉ nhờ cậy
vào ân điển của Đức Chúa Trời thể hiện
qua đức tin
nơi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Giê-Xu
trên thập
tự giá mà thôi, còn việc
làm
thánh thiện của tín hữu không cần thiết
cho sự cứu
rỗi linh hồn. Hơn nữa, Martin Luther quan niệm rằng Kinh
Thánh
là quyền tối thượng của tín hữu chớ
không phải
Giáo Hoàng. Martin Luther còn cho rằng
Kinh
Thánh không chỉ dành riêng
cho nhóm
tăng lữ, nhưng Kinh Thánh phải được phổ biến rộng
rãi đến
mỗi tín hữu. Các quan điểm của Martin Luther đều
hoàn toàn mâu thuẫn với truyền thống
của Công
Giáo La Mã đã có hơn 15 thế
kỷ qua
là giáo dân đọc Kinh Thánh
là phạm
tội với Tòa Thánh Va-ti-can.
Đến đời Giáo Hoàng Leo X (1513-1521) cần tiền để
hoàn tất công tác tái thiết
Quảng Trường
Thánh Phê-rô ở La Mã.
Giáo
Hoàng bắt đầu đẩy mạnh việc buôn bán
phiếu
xá tội để gây ngân quỹ cho
công tác
này. Giáo Hoàng giao việc
bán phiếu
xá tội ở Đức Quốc cho Tổng Giám mục Albert, thuộc
giáo phận Mainz. Số tiền thâu được trong việc
buôn
bán Phiếu Xá Tội chia cho Giáo
Hoàng
phân nửa.Tổng Giám mục Albert được giữ lại
phân nửa
để trả món nợ mà Tổng Giám Mục
đã vay mượn
của ngân hàng Fugger trước đây để mua
chức Tổng
Giám Mục cho mình. Tổng Giám mục
Albert chỉ định
tu sĩ Jean Tetzel thuộc dòng tu Dominic làm đại
lý
bán phiếu xá tội ở giáo phận Mainz,
Đức Quốc.
Để bắt đầu công việc buôn bán, tu sĩ
Tetzel
vào các giáo đường, nhân
danh Giáo
Hoàng hứa rằng hễ ai mua phiếu xá tội sẽ được tha
tội,
tội lớn lẫn tội nhỏ đã phạm và sẽ phạm trong
tương lai.
Ai mua phiếu xá tội cho thân nhân
quá cố
thì linh hồn của họ đang bị đọa đày ở Luyện Ngục
được
lên thiên đàng ngay. Để cho việc
buôn
bán có thêm nhiều lợi nhuận, tu sĩ
Tetzel quảng
cáo rầm rộ khắp đường phố là ai mua phiếu
xá tội
của ông bán thì linh hồn của
thân nhân
ở Luyện Ngục được bay lên thiên đàng
ngay, như
bài thơ được truyền tụng trong thời đó
là: Tiền
vàng rơi xuống thùng đây. Hồn trong hỏa
ngục bay
ngay thiên đàng (As the coin into the coffer
rings, the
soul from purgatory springs).
Việc buôn bán phiếu xá tội
và những lời
quảng cáo láo khoét của tu sĩ Tetzel
đến tai Linh
mục Martin Luther, người đang cai quản một họ đạo giáp ranh
với
vùng Mainz. Linh mục Martin Luther vốn đã từng
chống đối
việc buôn bán phiếu xá tội của
Giáo
Hoàng, vì người cho đó là
việc làm
ăn bất chính. Linh mục Martin Luther càng
công phẫn
hơn khi nghe tu sĩ Tetzel quảng cáo phiếu xá tội
có tánh cách lừa bịp giáo
dân để thu
lợi bất chính trên mồ hôi nước mắt của
con
chiên nghèo khổ. Ông liền viết một
kháng nghị
gồm có 95 luận đề. Đến ngày 31-10-1517,
ông đem
dán kháng nghị đó trên bản
yết thị của đại
thánh đường Wittenberg để phản đối việc buôn
bán
phiếu xá tội của Giáo Hoàng. Đại
ý của
kháng nghị nói rằng Giáo
Hoàng là
người giàu nhất của những người giàu
thì nên
dùng tiền của mình để tái thiết
công trường
Thánh Phê-rô, thay vì đi
bán phiếu
xá tội lấy từ đồng từ cắt của con chiên
nghèo khổ
để tái thiết công trường này.
Giáo
Hoàng phải hoàn lại số tiền mà con
chiên
đã bị dụ dỗ mua phiếu xá tội. Việc buôn
bán
phiếu xá tội là việc làm ăn bất
chính.
Phiếu xá tội của Giáo Hoàng chẳng
có quyền
bôi xóa dầu một tội nhỏ xíu
nào mà
người ta đã phạm cùng Đức Chúa Trời.
Giáo
Hoàng cũng không có quyền tha tội.
Người nào
giảng dạy dùng phiếu xá tội để chuộc tội
là sai
lầm. Ai đặt niềm tin nơi phiếu xá tội là đặt niềm
tin
vào một tà thuyết vô ích.
Người có
tiền mà không dùng tiền mình
để giúp
người nghèo khổ mà lại dùng tiền
đó để mua
phiếu xá tội của Giáo Hoàng
là mua lấy sự
thạnh nộ của Đức Chúa Trời về cho mình.
Martin Luther gởi bản kháng nghị nói
trên đến Tổng
Giám mục Albert. Tổng Giám mục Albert liền chuyển
bản
kháng nghị đó đến Giáo
Hoàng ở La Mã
để xin Giáo Hoàng có biện
pháp thích
nghi đối phó với tu sĩ Martin Luther.
Đến năm 1518, quan tư pháp của Giáo
Hoàng (papal
inquisitor) là Silvester Prierias ban trác lệnh
đòi Martin Luther qua La Mã hầu tòa,
để chịu
xét xử về tội phổ biến và giảng dạy tà
thuyết.
Martin Luther bác bỏ trác lệnh đòi hầu
tòa
đó vì quan niệm rằng Kinh Thánh
không bao
giờ sai lầm, chỉ có Giáo Hoàng mới
có thể
sai lầm mà thôi.
Đến ngày 15 tháng 6 năm 1520, Giáo
Hoàng
Leo X ban hành giáo lệnh dứt phép
thông
công Martin Luther. Giáo lệnh này trưng
ra 41 điều
để cáo buộc Martin Luther dạy tà thuyết.
Giáo lệnh
bắt buộc Martin Luther phải thiêu hủy các
sách
mà ông đã viết để quảng bá
lẽ đạo xưng nghĩa
bởi đức tin. Giáo lệnh cho Martin Luther 60 ngày
để ăn
năn. Nếu Martin Luther không ăn năn nội trong 60
ngày
thì giáo lệnh đương nhiên có
hiệu lực.
Giáo lệnh còn cho phép
chính quyền bắt
Martin Luther giải giao về La Mã để Giáo Hội trị
tội.
Giáo lệnh khuyến cáo ai chứa chấp Martin Luther
sẽ bị họa
lây vào thân. Giáo
Hoàng còn
cho rằng: Martin Luther là con heo rừng đang phá
hoại
vườn nho của Chúa.
Để đối phó với giáo lệnh dứt phép
thông
công của Giáo Hoàng Leo X, Martin
Luther đem
giáo lệnh dứt phép thông công
ra đốt trước
đám đông gồm có các
giáo sư, sinh
viên và dân chúng.
Martin Luther cho rằng: đó là giáo
lệnh khả ố của Antichrist.
Martin Luther đốt giáo lệnh dứt phép
thông
công của Giáo Hoàng là
có mục
đích để nói lên rằng Martin Luther
hoàn
toàn phủ nhận quyền hạn và chức vụ
Giáo
Hoàng, và cũng là một hành
động để
nói lên sự chấm dứt mối liên hệ giữa
Martin Luther
với Giáo Hội Công Giáo La Mã.
Trước hết, nên biết thêm là trong thời
cải
chánh của Martin Luther, nước Đức đang bị chia ra gần 300
tiểu
quốc. Ở mỗi tiểu quốc do một tiểu vương cai trị. Mỗi tiểu vương
có một nền hành chánh và
quân đội
riêng của mình, các tiểu vương ở dưới
quyền của
Hoàng Đế của Đế Quốc La Mã Thánh (Holy
Roman
Empire). Trong lúc đó, Giáo Hội
Công
Giáo La Mã ở dưới quyền kiểm soát
và kềm
tỏa của Giáo Hoàng. Trong thời cải
chánh, Charles
V là Hoàng đế đương nhiệm của Đế Quốc La
Mã
Thánh. (Đế Quốc La Mã Thánh do vua
nước Đức
là Otto I cấu kết với Giáo Hoàng
thành lập
vào năm 962, bằng cách kết hợp nước Đức
và nước
Ý thành một khối. Đế Quốc La Mã
Thánh bị
Nã-phá-luân phá hủy năm
1806).
Giáo Hoàng Leo X không ngớt
yêu cầu
Hoàng đế Charles V thi hành giáo lệnh
dứt
phép thông công Martin Luther. Để thi
hành
giáo lệnh dứt phép thông
công, Hoàng
đế Charles V muốn nghe đôi bên tường
trình quan điểm
của mình. Đến ngày 17 tháng 4 năm
1521,
Hoàng đế Charles V triệu tập hội nghị tại tỉnh Worms ở Đức
Quốc,
để nghe Martin Luther và viên tư pháp
của
Giáo Hoàng tường trình các
quan điểm của
đôi bên. Hội nghị này có
nhiều thành
phần tham dự, Hoàng đế Charles V ngồi ở giữa
phòng họp,
xung quanh hai bên là những hàng ghế
của các
Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, các
sứ thần của
Giáo Hoàng và các
khâm sai
cùng đại biểu của các nước Âu
Châu
phái đến tham dự.
Để mở đầu hội nghị, viên tư pháp của
Giáo
Hoàng đứng lên chỉ tay vào hơn 20 quyển
sách
của Martin Luther để trên bàn, rồi hỏi Martin
Luther rằng:
Có phải ngươi là tác giả của
các
sách này không? Ngươi có
bằng lòng
thủ tiêu các quyển sách đó
cùng
các quan điểm chứa đựng trong các sách
đó
không?
Martin Luther đứng lên giữa phòng hội
dõng dạc
công nhận ông là tác giả của
các
sách đó.
Rồi ông bình tĩnh đưa ra các
lý do khiến
ông không thể thủ tiêu các
sách
đó được vì nghĩ rằng ông
không thể để cho
Giáo Hoàng hay là các
Giáo Hội Nghị
có quyền xét đoán niềm tin của
mình. Nếu ai
muốn thay đổi quan điểm của ông thì phải chỉ cho
ông
biết điểm nào sách ông nói
không
đúng với Kinh Thánh.
Qua ngày sau, hội nghị tái nhóm
và biểu
quyết nghiêm cấm lưu hành các
sách của
Martin Luther, thu hồi quyền công dân của Martin
Luther
và đặt Martin Luther ra ngoài vòng
pháp
luật. Bởi cấm lệnh này, số phận của Martin Luther như chỉ
mành treo chuông, vì phe
phái của
Giáo Hoàng có thể ra tay
sát hại Martin
Luther bất cứ lúc nào.
Trong nhóm người ủng hộ Martin Luther có tiểu
vương
Frederick, vị tiểu vương này nhận thấy Martin Luther
không
thể sống an toàn với cấm lệnh của hội nghị Worms.
Nên tiểu
vương Frederick tổ chức bắt cóc Martin Luther đem giấu trong
lâu đài Wartburg ở gần Eisenach, Đức Quốc.
Trong lúc Martin Luther đang ẩn náu ở
lâu
đài Wartburg thì bên ngoài
có
giáo sư Philip Melanchthon và Andreas Carlstadt
thay thế
Martin Luther tiếp tục lãnh đạo và đẩy mạnh cuộc
cải
chánh lan tràn trên khắp nước Đức.
Martin Luther ẩn náu trong lâu đài
Wartburg được 10
tháng - từ tháng 4 năm 1521 đến tháng
2 năm 1522.
Trong thời gian này Martin Luther viết nhiều sách
nhỏ để
phổ biến quan điểm cải chánh khắp nơi trong nước Đức.
Ông
cũng dùng thời gian này để dịch Kinh
Thánh
Tân Ước từ tiếng Hy Lạp qua Đức ngữ. Nhờ bản dịch
này,
dân chúng Đức biết được lẽ thật của Lời
Chúa
mà gia tăng lòng ủng hộ và mong sao
cho cuộc cải
chánh sớm thành công. Cũng trong thời
gian
này, ở Wittenberg có một số người theo cải
chánh
quá khích, muốn chấn chỉnh Giáo Hội
Công
Giáo La Mã bằng bạo động. Họ xúi giục
sinh
viên xông vào các
giáo đường đang
lúc hành lễ Mi-sa, đập bể hình tượng,
dẹp bỏ
các bàn thờ, bài xích việc
làm lễ
báp-têm cho trẻ sơ sanh. Khi Martin Luther hay sự
việc xảy
ra ở Wittenberg thì lo sợ việc dùng bạo lực để
cải
chánh sẽ làm cho chánh quyền
và giáo
quyền có duyên cớ dùng vũ lực
đàn áp
thì phong trào cải chánh sẽ bị
tiêu diệt,
khó thành công được. Martin Luther liền
tức tốc rời
lâu đài Wartburg để trở về Wittenberg ngay. Martin
Luther
vẫn biết rằng ông có thể bị giáo quyền
và
chánh quyền bắt ông ở Wittenberg để thi
hành bản
án của hội nghị Worms. Nhưng Martin Luther nương cậy
vào
sự bảo vệ của cánh tay quyền năng của Đức Chúa
Trời
nên ông không ngần ngại trở lại
Wittenberg. Martin
Luther về đến Wittenberg nhằm ngày Chúa nhật.
Ông
vào giáo đường giảng dạy tám
ngày
liên tiếp. Ông bài bác
các bạo động
quá khích có phương hại đến cuộc cải
chánh
ôn hòa mà ông đang chủ
trương. Lời giảng dạy
của Martin Luther có sức mạnh cảm hóa được
thành
phần quá khích, lập lại được trật tự
và chấn chỉnh
lại các nghi thức thờ phượng thích hợp với chiều
hướng
mới của công cuộc cải chánh.
Vào năm 1521, Giáo Hoàng Leo X qua
đời, đến năm 1522 Giáo Hoàng Hadrian VI
lên kế vị.
Giáo Hoàng Hadrian VI lên
ngôi được một năm
rồi cũng qua đời. Đến năm 1523, Giáo Hoàng
Clement VII
lên kế vị.
Vào tháng 12 năm 1524, Martin Luther cởi
áo thầy
tu trả lại nhà dòng để trở lại đời sống
phàm
tục. Đến ngày 27 tháng 6 năm 1525, Martin Luther
thành hôn với nữ tu sĩ hồi tục tên
Catherine von
Vora. Hôn lễ cử hành tại thánh đường
Wittenberg
dưới sự chủ lễ của Mục sư Pomeranus. Ông bà Martin
Luther
chung sống với nhau có được 2 người con trai và 3
người
con gái, và còn nuôi
thêm 11 em
cô nhi trong nhà.
Trong thời gian trở lại sống ở Wittenberg, Martin Luther tiếp tục
làm giáo sư và giảng sư ở Viện Đại Học
Wittenberg.
Ông vẫn tiếp tục viết sách để phổ biến quan điểm
cải
chánh của mình. Hơn nữa, Martin Luther
đã
hoàn tất việc phiên dịch Kinh Thánh Cựu
Ước từ
tiếng Hê-bơ-rơ ra Đức ngữ.
Trong thời gian này, Giáo Hoàng
không ngớt
gây sức ép để bắt buộc Hoàng đế La
Mã thi
hành cấm lệnh Worms là thiêu sống
Martin Luther như
Giáo Hội Công Giáo La Mã
đã từng
làm đối với những người dám lên tiếng
chống lại
những giáo lý bất hợp kinh của Giáo
hội Công
Giáo La Mã. Trong số người bị thiêu
sống đó
có tu sĩ John Huss (1369-1415) đã bị
Toà Án
Dị Giáo của Giáo Hoàng kết
án tử
hình bằng cách thiêu sống vì
đã
dám chỉ trích những sai lầm của Giáo
Hội
Công Giáo trước đó hơn một thập
niên. Sở dĩ,
Hoàng đế Charles V không thể thực hiện được lời
yêu
cầu của Giáo Hoàng về việc thi hành
cấm lệnh Worms
đối với Martin Luther. Vì trong thời gian này,
Hoàng đế La Mã thường có chiến tranh
với
các nước lân bang nên ngài
rất cần các
tiểu vương cải chánh ở Đức hỗ trợ về mặt quân sự
khi gặp
cơn nguy biến. Hơn nữa, việc thi hành cấm lệnh Worms cũng
có thể gây ra sự chia rẽ giữa nhóm
giáo
dân theo phong trào Cải Chánh
và nhóm
giáo dân theo Giáo Hội Công
Giáo La
Mã. Hoàng đế e rằng sự chia rẽ có thể
đưa đến một
cuộc nội chiến khó tránh khỏi. Nhờ vào
tình
huống này mà Martin Luther khỏi bị
thiêu sống.
Ông sống thêm 25 năm nữa ở Wittenberg để
lèo
lái công cuộc cải chánh.
Vào những năm cuối của cuộc đời, Martin Luther thường đau ốm
luôn, nên qua đời vào ngày 18
tháng 2
năm 1546 tại quê nhà. Martin Luther hưởng thọ được
63 tuổi.
Trong thời gian từ hội nghị Worms (1521) cho đến khi Martin Luther qua
đời (1546), Hoàng đế La Mã Charles V
đã triệu tập
nhiều hội nghị để nhóm Cải Chánh của Martin
Luther
và Giáo Hội Công Giáo La
Mã
hòa giải các dị biệt về niềm tin của
đôi bên.
Mục đích của Hoàng đế là lôi
kéo phe
Cải Chánh quay trở lại Giáo Hội Công
Giáo La
Mã và thuận phục Giáo
Hoàng. Nhưng
các hội nghị đó chẳng mang lại kết quả cụ thể
nào.
Hai bên càng tranh luận càng
cách biệt nhau
nhiều hơn.
Hoàng đế Charles V nhận thấy nghị đàm
không thuyết
phục được phe Cải Chánh, nên ngài quyết
định
dùng binh lực hùng mạnh của mình để
tiêu
diệt phe Cải Chánh ở Đức. Đến năm 1550, Hoàng đế
La
Mã xua quân qua Đức, đánh chiếm
và triệt hạ
các thành trì của các tiểu
vương theo phe
Cải Chánh. Trong vòng một năm đầu mà
chỉ có
thành Magdebourg còn đứng vững trước
các cuộc tấn
công của quân Hoàng đế Charles V. Sau
nhiều cuộc tấn
công thành Magdebourg thất bại, Hoàng
đế Charles V
bèn giao việc bao vây và triệt hạ
thành
Magdebourg cho Maurice, một tiểu vương của nước Đức, trước
đó
có lần đã theo phe Cải Chánh.
Trong lúc bao vây thành Magdebourg,
tiểu vương
Maurice cảm thấy mình không nên tiếp tục
ủng hộ
Hoàng đế La Mã để cho quân ngoại quốc
giày
xéo đất nước mình và chà
đạp lên
quyền tự do tín ngưỡng của dân tộc
mình. Nên
tiểu vương Maurice quyết định quay lại đánh Hoàng
đế La
Mã. Với sự hỗ trợ của Hoàng đế Pháp
là
Henry II và tàn binh của phe Cải
Chánh. Tiểu Vương
Maurice tiến đến vây đánh Hoàng đế La
Mã
Charles V làm cho Hoàng đế phải thua chạy trốn
qua nước
Áo. Sau đó, quân Cải Chánh
làm chủ
được tình hình của toàn thể nước Đức.
Đến năm 1552, tiểu vương Maurice và đồng minh Cải
Chánh
nhận thấy thế lực của Hoàng đế La Mã
càng
ngày càng suy yếu. Nên họ gởi văn thư
yêu cầu
Hoàng đế phải bãi bỏ các cấm lệnh, cho
họ được tự
do thờ phượng Đức Chúa Trời theo lời dạy trong Kinh
Thánh
và cho Giáo Hội Cải Chánh được
bình đẳng
với Giáo Hội Công Giáo La
Mã. Vì yếu
thế, Hoàng đế Charles V đành phải ưng thuận
ký
hoà ước tại Passau, cho Giáo Hội Cải
Chánh được
các quyền lợi theo như lời yêu cầu.
Đến năm 1555, một hội nghị được triệu tập tại Augsburg. Trong hội nghị
này phe Cải Chánh yêu cầu
Hoàng đế Charles V
cho họ được tự do tín ngưỡng vô điều kiện, thừa
nhận
Giáo Hội Cải Chánh là hợp
pháp và
được bình đẳng với Giáo Hội Công
Giáo La
Mã trên mọi phương diện. Hoàng đế
Charles V nhận
thấy uy quyền của mình không còn
hùng mạnh
như xưa nữa, nên Hoàng đế phải hạ bút
ký
hòa ước vào ngày 25 tháng 9
năm 1555, theo
như sự đòi hỏi của Giáo Hội Cải Chánh.
Hoà
ước này thường được gọi là Hoà ước
Augsburg.
Hội nghị Augsburg cũng đưa ra một biểu quyết chung cho Giáo
hội
ở Đức là tiểu vương nào theo Giáo Hội
Cải
Chánh thì toàn dân của tiểu
quốc đó
phải theo Giáo Hội Cải Chánh. Tiểu vương
nào theo
Giáo Hội Công Giáo La Mã
thì
toàn thể dân chúng của tiểu quốc
đó phải
theo Giáo Hội Công Giáo La
Mã. Người
dân có quyền di cư qua vương quốc mà
mình
chọn lựa để sinh sống thích hợp với tín ngưỡng
của
mình. Giáo Hội Cải Chánh được thật sự
tự do
hành đạo từ khi có hoà ước Augsburg
này.
Đuốc
Thiêng 103
01
Tâm
trí con người; -
ĐTPÂ
02
Thơ: Xin
Chúa sai con đi - Đức Huy
03
Người được
Chúa sai đi - Mục sư Nguyễn Văn Bình
04
Người
đàn bà ở Thêcôa
- Bà Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Tiểu sử
Thánh ca: "Giê-xu Đấng hằng yêu thương
tôi"
- Fanyia
06
Thơ:
Yêu Chúa - Trần Nguyên Lam
Bửu
07
Tìm
hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther
- Diệp Dung
08
Điều rất
cần cho chúng ta
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử
- Lạc Hồ
10
Một
vài loài cây có độc
tính - Dr Trương Hoàng Lâm
11
Vật đổi
sao dời - Bà Lê Văn Bắc
12
Xứ Do
Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng
tác - Mai Đào
13
Tin Tức
- Vinh Bằng