Giêrusalem,
4000 năm lịch sử
- Lạc Hồ
Đuốc Thiêng
103,
tháng 11 năm 2010
Nguyên tác:
sách "Les croisades vues par les arabes" - Thập tự dưới mắt
người Ả rập.
Nhà Xuất bản:
JC Lattès, Paris, 1983.
Tác giả :
Amin Maalouf.
Trích dịch:
Lạc Hộ.
(coi Đuốc
Thiêng từ số 3)
Chương 51/7: Vua
thánh Noureddin
(Về đề mục của chương
này "Vua
thánh...". Ðây là dịch từ
câu Pháp
văn "Le saint roi Noureddin". Có độc giả sẽ bất
bình với
danh từ "thánh". Xin nhắc lại là tài
liệu
này do ngòi bút của một người Ả-rập
Hồi-giáo, phản ảnh tâm trạng của đồng
bào
mình bị nạn ngoại xâm).
Zinki chết rồi, các chủ tướng từng cộng tác với y
nay
rút quân về, hoặc đóng lại nơi một
pháo
đài đây đó để chờ thời. Và
thời cơ mới bắt
đầu với con trai thứ nhì của Zinki, tên
là
Noureddin.
Trong trại quân của Zinki, mọi người bàng
hoàng,
bối rối, chỉ có một mình Noureddin
bình tĩnh. Anh
này 29 tuổi, thân hình cao lớn,
ánh mắt hiền
từ, đến bên xác Zinki hãy
còn ấm, rút
cái nhẫn trên tay Zinki ra, đeo vào tay
mình, có nghĩa là từ nay y nắm hết
quyền
hành.
Noureddin, anh
là ai?
Sử gia Ibn al-Athir viết
"Tôi
đã đọc về đời sống của các vua chúa
thời trước,
tôi không thấy ai đạo đức và
công bình
như Noureddin, trừ vài vị calife buổi đầu"
(calife:
lãnh đạo tối cao hồi giáo). Noureddin cũng can
đảm như
cha mình, cũng khéo cầm quân, nhưng hơn
cha
mình về điểm động viên và
tuyên truyền cho
cuộc thánh chiến đánh những kẻ thù của
hồi
giáo. Y hiểu rằng trong chiến tranh, tuyên truyền
là điều quan trọng hàng đầu, nên y sẽ
huy động cả
trăm học giả giúp mình, lôi
kéo các
lãnh tụ trong thế giới ả rập về cộng tác dưới cờ
mình. Các vị này sẽ viết
sách, viết thơ
giúp y phổ biến 3 nguyên tắc rất giản dị của cuộc
thánh chiến : thứ nhứt, chỉ có một tôn
giáo
duy nhứt, là hồi giáo phái sunnite,
có
nghĩa là phải triệt bỏ các phái
khác, kể
các phái khác là sai lầm.
Thứ nhì,
chỉ có một quốc gia duy nhứt, để bao vây chặt chẽ
quân Franj khắp bốn phía. Thứ ba, là
chỉ có
một mục đích duy nhứt, là chiếm lại hết mọi
vùng ở
dưới tay quân Franj, nhứt là Jerusalem.
Noureddin triệt để tuân thủ luật lệ hồi giáo, tỉ
như
không uống rượu. Chính mình y
không uống rượu
đã đành, nhưng y còn cấm tất cả
quân sĩ uống
rượu. Y dẹp hết mọi y phục sang trọng, chỉ mang quần áo vải
thường, gây bối rối cho các tướng lãnh
dưới quyền
mình, vì các tướng lãnh
này ưa mặc
quần áo sang trọng, đắt tiền, và ưa uống rượu.
Noureddin cũng gây bối rối cho các émir
(lãnh tụ hồi giáo về hành
chánh), vì
y cứ từ chối danh vị Noureddin (có nghĩa là
"ánh
sáng đạo soi đường"), chỉ nhận dùng tên
mình
là Mahmoud. Trước mỗi khi ra trận, y thường cầu nguyện:
"Lạy
Chúa, xin ban chiến thắng cho hồi giáo,
không phải
cho Mahmoud. Con chó Mahmoud này đâu
có xứng
đáng được nhận gì đâu!"
Những hành
động khiêm nhường kiểu này làm đẹp
lòng
dân chúng, những người hèn hạ, những
người ngoan
đạo, nhưng làm mất lòng các
émir,
các người quyền thế, họ cho rằng Noureddin giả
hình. Dầu
sao đi nữa, ta thấy kết quả là Noureddin đã động
viên thế giới hồi giáo gom sức đánh bại
quân
Franj, mở đường để về sau, người kế nghiệp mình
là
Saladin hoàn tất công trình
này.
Lên nối ngôi cha, Noureddin trước hết lo củng cố vị
trí của mình, đưa quân trở về Alep. Y
để cho anh
lớn của mình tên là Saifedin cứ cai trị
thành Mossoul và tất cả vùng xung
quanh, như thế y
được yên trí về phía
đông,và y được
chuyên tâm lo việc chiến trận ở vùng
Syrie.
Có 2 mối lo gần, một là quân Franj ở
phía
tây, nơi thành Antioche, do vua Raymond chỉ huy;
hai
là thành Edesse ở phiá bắc.
Quý độc giả
còn nhớ lại (coi Ðuốc Thiêng 100) Zinki
chiếm được
Edesse cuối năm 1144, được toàn thể thế giới Ả rập hoan
hô
là chiến thắng khởi đầu cho cuộc chống quân Franj.
Nay
Noureddin mới trở về Alep được một tháng, thì
nghe tin
là Jocelin đã chiếm lại Edesse; nếu để
yên cho
Jocelin, thì còn gì về thanh thế của
Zinki,
và của chính mình nữa ! Noureddin cấp
tốc
kéo quân đi, đi ngày đi đêm,
ngựa chiến
nào mỏi mệt thì bỏ lại bên lề đường,
và
Jocelin sững sờ khi thấy Noureddin đến trước thành,
vì
chưa kịp tổ chức lại cuộc bảo vệ thành. Ngay chập tối,
Jocelin
chạy trốn, những quân sĩ đi phía sau bị
quân của
Noureddin đuổi kịp và giết rất nhiều.
Thế là yên tâm mối lo về phía
bắc, và
cũng yên luôn mối lo về phía
tây, vì
vua Raymond ở thành Antioche ngán Noureddin hoạt
động
quá lẹ làng, Raymond không
kéo quân
nữa đi ra cướp những vùng kế cận. Ounar, chủ tỉnh Homs, gả
con
gái cho Noureddin.
Tuy nhiên, với Noureddin, hai mối lo trên
không thấm
thiá gì với tin dữ vừa đưa tới. Theo sử gia Ibn
al-Qalanissi:
"Tin tức
dồn dập từ
thủ đô Constan-tinople, từ các vùng
quân
Franj chiếm đóng, nói rằng nhiều
đoàn
quân Franj từ xứ họ (tức là từ Âu
châu) đang
kéo đến chinh phục đất hồi giáo. Các
vua
này kéo hết quân đi, bỏ trống xứ
mình
không cần để lại quân phòng vệ,
quân số họ
có tới cả triệu gồm bộ binh và kỵ binh, với nhiều
quân cụ và khí giới mạnh".
Ðúng thế, đầu muà thu năm 1147, họ tiến
vào
vùng Tiểu Á (Asie Mineure), trên lưng
áo mỗi
người có thêu hình thập tự, giống
như trong
cuộc thánh chiến 50 năm trước. Thế giới hồi giáo
kinh
hoàng, tự hỏi thành nào sẽ bị họ
đánh
trước. Lý luận hợp lý nhứt, là họ sẽ
đánh
Edesse, để trả thù cho vụ bại trận mới đây của
Jocelin.
Một lý luận khác, là họ sẽ
đánh Alep, để
"chặt đầu rắn", dẹp được Noureddin, thì Edesse tự
nhiên sẽ
phải phục tùng. Tuy nhiên, các vua
Franj chẳng
đánh Alep,chẳng đánh Edesse. Qualanissi viết
"Sau
nhiều ngày cãi lộn nhau, họ thoả thuận đi
đánh
Damas, và họ chắc chắn là sẽ thành
công,
nên họ đã tính trước là của
cướp được sau
khi chiến thắng Damas sẽ chia nhau cách nào".
Chiến trận Damas
Ðánh Damas, uả! Trong số những chủ tỉnh hồi
giáo,
người duy nhứt có ký hoà ước với
Jerusalem,
là Moinuddin Ounar, chủ tỉnh Damas. Thế mà nay sẽ
bị
quân Franj đến đánh! Ha ha, cuộc kháng
chiến hồi
giáo đang kiếm sự giúp đỡ, thế mà
không
có cách giúp đỡ nào hữu
hiệu hơn là
hành động này từ phía quân
Franj!
Ngày 24 tháng 7 năm 1148, đoàn
quân Franj
tới trước thành Damas, theo sau là những
đoàn lạc
đà đông đảo chở hành lý, họ
cắm trại lan
tràn trong đồng bằng Ghoutta, tới sát ngay
các
cổng thành. Dân thành Damas lo họ sẽ
vượt được cổng
thành, nên ngay tối hôm đó họ
lo thiết lập
các công sự chiến đấu trong thành phố.
Sử gia Ibn
al-Qalanissi chép:
"Hôm
sau, ngày 25 tháng 7, một ngày
chúa nhựt,
dân thành Damas xông ra chiến
đấu cho đến tối,
cả 2 bên cùng mệt, chẳng ai thắng ai. Qua
sáng
hôm sau, dân thành Damas vững
chí, vì
thấy từ phía bắc có viện quân
kéo đến, người
turc, kurde, arabe, họ đáp lại lời kêu cứu của
Ounar, chủ
thành. Ounar còn khôn ngoan, gởi thơ
cho quân
Franj, nói đại ý: nếu các anh cứ
đánh,
tôi sẽ mở cửa thành, dâng cho Noureddin.
Lúc
đó Noureddin sẽ lập căn cứ ở Damas để về sau sẽ chiếm hết
mọi
thành khác của các anh".
Ngày hôm sau, quân Franj rút
ra xa, rồi
rút luôn về Jerusalem. Ounar được hoan
hô, nhưng 1
năm sau đó, chết vì bịnh kiết lỵ.
Noureddin là người chiến thắng thật sự ở trận Damas.
Tháng 6 năm 1149, y đánh bại quân của
Raymond, chủ
thành Antioche. Raymond bị giết bởi tay Chirkouh,
chú của
Saladin. Chirkouh chặt đầu Raymond, và theo lịnh của
Noureddin,
đặt đầu Raymond vào trong hộp bằng bạc, gởi chiến-thắng-vật
này về dâng cho calife ở Bagdad (calife:
lãnh đạo
tối cao hồi giáo).
Raymond chết, là hết lo về quân Franj ở mặt bắc xứ
Syrie,
Noureddin bèn tính chuyện chiếm Damas. Y
thành
công sau 6 năm, sau nhiều lần đóng quân
đóng
trại trước thành nhưng không tấn công để
dương oai
mà không đánh, vì y chủ
trương liên
lạc ngầm để chia rẽ những phe võ trang trong
thành với
dân chúng. Kết quả là ngày
25 tháng 4
năm 1154, dân thành vui vẻ mở cổng đón
Noureddin
vô. (Lời dịch giả: chi tiết những chuyện liên lạc
ngầm
này rất lý thú nhưng xin miễn kể ra
đây
vì quá dài và
không cần thiết, độc
giả có thể coi trong cuốn sách của Maalouf ghi
phía trên).
Lần đầu tiên, kể từ khi quân Franj từ Âu
châu
tới xâm chiếm xứ Syrie, toàn thể xứ Syrie hồi
giáo
được thống nhất lại, từ Alep tới Damas, dưới tay một ông
hoàng mới 37 tuổi mà quyết chí chiến
đấu sẽ
đánh bại hoàn toàn quân
xâm lăng.
Tiếp theo, quần thần của Noureddin đề nghị đánh
thành
Antioche, nhưng y không tán thành, viện
lẽ Antioche
là đất cũ của vua "Roum" (tức là
Constan-tinople), đừng
dính vào. Và y có
lý. 3 năm sau, vua
của Constantinople là Manuel Commène đem
quân đến
để chiếm lại Antioche, lúc này do Renaud, một
tướng
Franj, làm chủ. Renaud xin hàng, vừa
lúc Noureddin
cử phái đoàn đến xin giao hảo với vua Manuel,
được Manuel
thân thiện tiếp đón.
Noureddin muốn đánh Jerusalem, nhưng ngán
lúc
này có Manuel ở kề biên giới,
nên tình
trạng trong vùng cứ ở yên mãi cho đến
năm 1163, khi
Noureddin đi đánh Egypte (Ai cập), là chuyện
chúng
ta sẽ thấy sau này.
Đuốc
Thiêng 103
01
Tâm
trí con người; -
ĐTPÂ
02
Thơ: Xin
Chúa sai con đi - Đức Huy
03
Người được
Chúa sai đi - Mục sư Nguyễn Văn Bình
04
Người
đàn bà ở Thêcôa
- Bà Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Tiểu sử
Thánh ca: "Giê-xu Đấng hằng yêu thương
tôi"
- Fanyia
06
Thơ:
Yêu Chúa - Trần Nguyên Lam
Bửu
07
Tìm
hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther
- Diệp Dung
08
Điều rất
cần cho chúng ta
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử
- Lạc Hồ
10
Một
vài loài cây có độc
tính - Dr Trương Hoàng Lâm
11
Vật đổi
sao dời - Bà Lê Văn Bắc
12
Xứ Do
Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng
tác - Mai Đào
13
Tin Tức
- Vinh Bằng