Người được
Chúa sai đi -
Mục sư Nguyễn Văn Bình
Đuốc Thiêng
103,
tháng 11 năm 2010
*Kinh
thánh
nghiên cứu: Êsai
6:1-13
*Câu
gốc: «Đoạn,
tôi nghe tiếng Chúa phán rằng: Ta sẽ
sai ai đi? Ai
sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa rằng: Có
tôi
đây; xin hãy sai tôi. Ngài
phán: Đi
đi!». (Êsai 6:8, 9).
Vào lúc sinh tiền của Êsai, nước Giuđa
và
thành Giêrusalem được mô tả như một đất
nước, một
thành phố vô ơn, loạn nghịch, phạm nhiều tội lỗi
đối với
Chúa. Trong một sự hiện thấy thiên thượng,
Êsai được
Chúa mặc khải tình trạng của dân tộc
Giuđa bằng
những lời than thở, quở trách:
«Ta
đã nuôi nấng con cái, trưởng dưỡng
chúng
nó, song chúng nó dấy loạn nghịch
cùng ta.
Bò biết chủ mình, lừa biết máng của
chủ, song
Ysơraên chẳng hiểu biết, dân ta chẳng suy nghĩ.
Ôi!
Nước mắc tội, dân mang lỗi nặng nề, tông giống độc
dữ, con
cái làm bậy bạ kia! Chúng
nó đã
lìa bỏ Đức Giêhôva, khinh lờn Đấng
Thánh của
Ysơraên, đã trở nên xa lạ và
lui đi»
(Êsai 1:2-4). Trước tình trạng suy đồi, bại hoại
đó, Đức Chúa Trời muốn tìm kiếm một
người
có đủ tư cách để sai đi vào giữa
lòng
dân tộc, nhằm cảnh cáo tội lỗi, truyền rao sứ điệp
tình thương của Chúa , kêu gọi mọi
người đừng
làm điều ác nữa, hãy quay về với
Chúa, đi
theo con đường chính trực, làm điều thiện để được
sự
thương xót và tha thứ. Đồng thời Chúa
cũng muốn
dùng người Ngài chọn như một sứ giả loan
báo tin
mừng về một Đấng Cứu Thế sẽ từ trời xuống trần gian tìm
và cứu kẻ bị hư mất, đem hòa bình cho
nhân
loại trên trần thế.
Vào khoảng năm 740 TC, đúng vào
lúc vua
Ôxia băng hà, Êsai có một sự
hiện thấy đặc
biệt khác, làm thay đổi cả cục diện của cuộc đời
ông, và cũng chính lúc nầy,
Chúa
hài lòng vì đã
tìm được một người đủ
điều kiện cho Ngài sai đi làm công
tác lớn
lao cho đường lối kỳ diệu của Ngài.
Vì thế Chúa hỏi Êsai:
«Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng
ta?»
Êsai thưa:
«Có tôi đây, xin
hãy sai tôi!»
Ngài phán:
«Đi đi!»
Chúng ta tự hỏi lý do nào
mà Êsai
được Chúa lựa chọn để sai đi làm công
tác to
lớn như thế? Hay người được Chúa sai đi cần phải
có dấu
hiệu hoặc điều kiện gì? Đọc Êsai 6:1-13,
chúng ta
tìm thấy giải đáp cụ thể có tầm quan
trọng
khích lệ chúng ta chuẩn bị đời sống, nếu muốn
mình
được Chúa kêu gọi và sai đi cho
công
tác truyền giáo và xây dựng
vương quốc của
Ngài.
I.
PHẢI LÀ NGƯỜI THẤY CHÚA (Ês 6:1-4)
Điều kiện trước tiên để một người được Chúa chọn
sai đi,
theo Êsai 6:1-4, phải là người thực sự
«thấy
Chúa» bằng nhãn quan thuộc linh của
mình.
Êsai kể lại:
«Vào
năm vua Ôxia băng, tôi thấy Chúa ngồi
trên
ngôi cao sang, vạt áo của Ngài đầy dẫy
đền thờ.
Những sêraphin đứng bên trên
Ngài; mỗi
sêraphin có sáu cánh, hai
cái che
mặt, hai cái che chơn và hai cái
dùng để
bay. Các sêraphin cùng nhau
kêu lên
rằng: Thánh thay, thánh thay, thánh
thay là
Đức Giêhôva vạn quân! Khắp đất đầy dẫy sự
vinh hiển
Ngài! Nhơn tiếng kêu đó, các
nền ngạch cửa
rúng động, và đền đầy những
khói».
Theo các câu Kinh thánh nầy,
Êsai thấy Chúa như thế nào?
A. Thấy Chúa
ngồi trên ngôi cao sang
Trước tiên, Êsai nói:
«Về năm vua
Ôxia băng, tôi thấy Chúa ngồi
trên ngôi cao sang»
(Ês 6:1). Đọc câu Kinh thánh nầy,
chúng ta tự
hỏi: Tại sao phải đợi tới lúc vua Ôxia băng
Êsai mới
Thấy Chúa? Tại sao trước đó Êsai
không thấy
được Chúa? Có phải vua Ôxia
là bức
màn che khuất nhãn quan thuộc linh của
Êsai chăng?
Đây là những nghi vấn cần làm
sáng tỏ để
chúng ta kinh nghiệm được thế nào tiến
trình theo
Chúa của mình. Có thể có
hai lý do
khiến Êsai không thấy Chúa trong suốt
thời trị
vì của Ôxia. Hoặc là Ôxia
là một vị
minh quân, tài giỏi về nhiều lãnh vực
trở
thành thần tượng tôn sùng của
Êsai, khiến
Êsai không thấy ai khác ngoài
vua, hoặc
Ôxia là một vị vua có nhiều khuyết điểm
lỗi lầm
gieo thất vọng khiến Êsai vấp phạm ngăn trở con mắt thuộc
linh
của ông nhìn xa hơn.
Sách II Sử ký chương 26 viết, Ôxia vua
Giuđa,
lên ngôi lúc 16 tuổi khi vua cha
là Amaxia
qua đời. Vua là một minh quân, một anh
hùng
dân tộc, một vị vua được nhân dân
tôn
kính.
Về phương diện tôn giáo, vua là người
kính
sợ Đức Chúa Trời, làm điều thiện trước mặt
Ngài,
rắp lòng tìm kiếm Chúa và
được Ngài
ban cho nhiều may mắn.
Về chính trị, quân sự, vua Ôxia
có một đạo
quân hùng mạnh ba mươi vạn bảy ngàn năm
trăm người
thiện chiến sẵn sàng đối phó với cừu địch bất cứ
lúc nào. Vua từng oanh liệt chiến thắng
dân
Philitin, Gát, Giápnê, Árập
và
các dân Maôn, Ammôn cũng phải
chịu thần phục.
Danh tiếng vua vang vội đến cả cõi
Êdíptô, uy
danh vua ai nghe tới cũng nễ sợ.
Về mặt kinh tế, vua cho cải cách canh nông, chăn
nuôi, trồng tỉa, đào giếng nước, đất nước phồn
vinh,
nhân dân làm ruộng, trồng nho
trên đồng,
trên núi, người người an cư lạc nghiệp.
Về kỹ thuật, thời vua Ôxia, các kỹ sư chế tạo được
máy bắn tên và máy bắn
đá đặt
trên các tháp cao xung quanh
Giêrusalem
và nhiều nơi khác làm cho
quân thù
muốn tấn công phải sợ hãi thối lui.
Tuy nhiên, vua Ôxia cũng có
vài việc xấu. Khi được cường thịnh, vua sinh kiêu
ngạo,
«đến
đổi làm điều ác, phạm tội cùng
Giêhôva Đức Chúa Trời của
người»
Có lần vua tự ý vào đền thờ
xông hương
là việc chỉ có thầy tế lễ mới được
phép
làm.
«Thầy
tế lễ Axaria
vào sau người, có tám mươi thầy tế lễ,
đều
là người mạnh dạn, đồng đi theo. Chúng cản cự vua
Ôxia mà rằng: Hỡi vua Ôxia, chẳng phải
phần vua
xông hương cho Đức Giêhôva đâu,
bèn
là phần của thầy tế lễ, con cháu Arôn,
đã
được biệt riêng ra thánh đặng xông hương
vậy» (II Sử 26:16-18). Rồi họ can vua:
«Hãy
đi ra khỏi đền thánh, vì vua đã phạm
tội, lại
vì việc nầy, Đức Giêhôva sẽ chẳng
làm cho vua
được vinh hiển đâu» (II Sử 26:18).
«Ôxia
bèn nổi giận, người cầm nơi tay một cái
bình
hương, toan xông hương, và đang khi người nổi giận
cùng các thầy tế lễ, phung bèn nổi
lên
trán người» (II Sử 26:19). Thấy vua
bị bệnh phung,
các thầy tế lễ đuổi vua ra khỏi đền thờ. Kể từ
đó, vua bị
biệt lập cho đến khi băng hà.
Ngay khi Ôxia băng, bức màn che khuất bị rớt xuống
không còn nữa, bấy giờ Êsai
«thấy Chúa
ngồi trên ngôi cao sang» một
cách rõ
ràng. Ông thấy Chúa là Đấng
Tạo Hóa
Toàn Năng, là Vua cao Cả, đang ngồi
trên ngôi
tể trị trời đất muôn vật, thế giới loài người,
và
đặc biệt giờ đây cuộc đời và tấm lòng
ông
có Chúa làm chủ. Chúa cũng
đang ngồi
trên ngôi lòng của ông
và biến tấm
lòng ông thành
«ngôi cao sang»
của Ngài, để từ đó, cơ hội cao quý
được mở ra,
Chúa chuẩn bị sai ông đi cho công
tác vĩ đại
của Ngài. Có điều gì làm
che khuất
đôi mắt thuộc linh chúng ta thấy Chúa
chăng?
Có thần tượng hay tội lỗi nào làm cản
trở
nhãn quan thiêng liêng của
chúng ta chăng?
Tiền bạc, danh vọng, việc làm, thú vui,
tình
ái hoặc việc tốt, việc xấu của cá nhân
nào
đó chăng? Đừng để bất cứ ai hay điều gì
tác động
tâm trí, tấm lòng chúng ta,
phủ trên
chúng ta bức màn che kín tầm
nhìn của
chúng ta tới «ngôi cao sang»
của Chúa.
Chỉ khi nào ngôi lòng của
chúng ta mở ra
dành cho Chúa là Vua cao Cả tể trị,
lúc
đó chúng ta mới có điều kiện được
Chúa sai
đi cho công việc lớn của nhà Ngài. Ai
chưa mời
Chúa làm Chúa, làm Chủ,
làm Vua Cao
Sang quản cai ngôi lòng mình, sẽ
không hề
có hy vọng được Chúa sai đi cho công
tác của
nhà Ngài đâu. Nếu có,
đó chỉ
là ý riêng của mình
thôi. Chúa
chẳng hề sai những người như thế. Biết bao con dân
Chúa
rất lâu năm theo Ngài, nhưng chưa hề được
Chúa sai
đi, chỉ vì chưa hề thấy Chúa «ngồi
trên
ngôi cao sang» cai quản cõi
lòng của
mình.
B. Thấy vạt áo
Chúa đầy dẫy đền thờ
Khi bức màn che Ôxia rớt xuống, Êsai
«thấy
Chúa ngồi trên ngôi cao sang»,
song ông
còn thấy «vạt áo Ngài đầy
dẫy đền thờ»
nữa (Ês 6:1). Không phải một đền thờ, cũng
không phải
nhiều đền thờ, mà là «đầy dẫy đền
thờ», nghĩa
là vô số không thể đếm được
trên vạt áo
Ngài. Sự hiện thấy ấy có nghĩa gì? Đền
thờ
là biểu tượng, là hình ảnh,
là nơi của sự
thờ phượng. Sự hiện thấy ấy dạy cho Êsai biết Chúa
là Chúa của muôn Chúa,
là vua của
muôn vua, là Đấng mà chính
ông
và toàn thể nhân loại đáng
phải thờ phượng
Ngài. Ngài là Đấng duy nhất
và xứng
đáng nhất cho mọi người cúi xuống tôn
vinh
và thờ phương.
Khải huyền 14: 7 chép rằng:
«Hãy
kính sợ Đức Chúa Trời và tôn
vinh
Ngài, vì giờ phán xét
Ngài đã
đến, hãy thờ phượng Đấng dựng nên trời đất, biển
và
các suối nước». Sứ đồ Giăng trong một
sự hiện thấy
quang cảnh các Trưởng Lão thờ phượng
bên ngôi
Đức Chúa Trời kể lại rằng:
«Khi
các sinh vật lấy sự vinh hiển, tôn quý,
cảm tạ
mà dâng cho Đấng ngự trên
ngôi, là Đấng
sống đời đời, thì hai mươi bốn Trưởng Lão sắp
mình
xuống trước mặt Đấng ngự trên ngôi, và
thờ lạy Đấng
hằng sống đời đời, rồi quăng mão triều thiên
mình
trước ngôi mà rằng: Lạy Đức Chúa Trời
là
Chúa chúng tôi, Chúa
đáng được vinh
hiển, tôn quý và quyền lực,
vì Chúa
đã dựng nên muôn vật, và ấy
là
vì ý muốn Chúa mà
muôn vật mới
có và đã được dựng
nên» (Khải
4:9-11). Trước giả Thi Thiên chắc đã từng
nhìn thấy
«vạt áo Ngài đầy dẫy đền thờ»
nên lớn
tiếng kêu gọi:
«Hỡi
các con của Đức Chúa Trời... Hãy mặc
trang sức
thánh mà thờ lạy Đức
Giêhôva» (Thi 29:1-2).
«Hỡi
các họ hàng của muôn dân,
hãy
tôn vinh hiển và năng lực cho Đức
Giêhôva,
hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức
Giêhôva, hãy đem lễ vật vào
trong hành
lang Ngài, hãy mặc trang sức thánh
mà thờ
lạy Đức Giêhôva. hỡi cả trái đất,
khá run sợ
trước mặt Ngài». (Thi 96:7-9).
Đức Chúa Giê Xu chẳng những dạy loài
người phải thờ phượng Đức Chúa Trời:
«Nhưng
giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ
phượng
thật lấy tâm thần và lẽ thật
mà thờ phượng
Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà
Cha ưa
thích vậy. Đức Chúa trời là Thần,
nên ai thờ
lạy Ngài thì phải lấy tâm thần
và lẽ thật
mà thờ lạy» (Giăng 4:23-24), nhưng
Ngài
còn ra lệnh cho ma quỉ phải thờ phượng Đức Chúa
Trời nữa.
Ngài phán cùng ma quỉ:
«Hỡi
quỉ Satan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời
chép
rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức
chúa Trời
ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài
mà
thôi» (Mathiơ 4:10-11). Chỉ
có Đức
Chúa Trời là Đấng duy nhất xứng đáng
khiến mọi đầu
gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất đều phải thờ
phượng
Ngài. Vì vậy, trong thời Cựu ước, Chúa
ban điều
răn cho con dân Chúa dành một
ngày đặc biệt
để thờ phượng Ngài: «Hãy nhớ
ngày nghỉ đặng
làm nên ngày thánh. Ngươi
hãy
làm hết công việc mình trong
sáu
ngày, nhưng ngày thứ bảy là
ngày nghỉ của
Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi; trong
ngày
đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai
tớ
gái, súc vật của ngươi, đều chớ làm
công
việc chi hết; vì trong sáu ngày Đức
Giêhôva đã dựng nên trời, đất,
biển và
muôn vật ở trong đó, qua ngày thứ bảy
thì
Ngài nghỉ. Vậy nên Đức Giêhôva
ban phước cho
ngày nghỉ và làm nên
ngày
thánh» (Xuất 20:8-11). Đến thời Tân ước,
con
cái Chúa thấy «vạt áo
Ngài đầy dẫy
đền thờ» nên không chỉ dành
một ngày
thờ phượng Chúa mà thôi, song
«Ngày
nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ»
(Công vụ
2:46) và khuyên lơn nhau:
«Chớ
bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải
khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày
ấy hầu gần
chừng nào, thì phải càng
làm như vậy chừng
ấy» (Hê 10:25).
Người trung tín thờ phượng Chúa mới xứng
đáng được
Đức Chúa Trời sai đi cho công tác quan
trọng nhất
của Ngài. Những ai thờ ơ, hay bỏ qua sự nhóm lại
thờ
phượng Chúa nói lên sự thiếu
kính sợ
Chúa của mình, họ chưa thấy «vạt
áo
Ngài đầy dẫy đền thờ» bao giờ. Chỉ có
người thật sự
nhìn thấy «vạt áo Ngài đầy
dẫy đền thờ
» người ấy mới trung tín thờ phượng
Chúa. Đức
Chúa Trời trọng dụng Êsai và sai
ông đi,
vì ông đã thấy «vạt
áo Ngài đầy
dẫy đền thờ» và thờ phượng Ngài.
Các sứ đồ
và môn đồ xưa, gồm 120 người nhóm lại
một chỗ thờ
phượng Chúa nhằm ngày lễ Ngũ Tuần, vì
vậy Đức
Chúa Trời ban Thánh Linh Ngài ngự đến
và
sai họ ra đi giảng Tin Lành, kết quả có 3
ngàn
người tin Chúa trong ngày đó
(Công vụ 2).
Hội thánh đầu tiên tại Antiốt, xứ Syrie
«Đương
khi môn đồ thờ phượng Chúa, kiêng ăn,
thì Đức
Thánh Linh phán rằng: Hãy để
riêng Banaba
và Saulơ đặng làm công việc ta
đã gọi
làm. Đã kiêng ăn và cầu
nguyện xong,
môn đồ bèn đặt tay trên hai người, rồi
để cho
đi» (Công vụ 13:2-3). Rõ
ràng
Chúa sai người nào ra đi cho công việc
Ngài,
những người đó đều là người có tấm
lòng thờ
phượng Ngài, hay đang khi họ thờ phượng Ngài.
C. Thấy Chúa
là Đấng cực thánh
Êsai chẳng những thấy Chúa là vua cao
cả, là
Đấng mọi dân, mọi nước, mọi người phải phủ phục, quăng
mão
triều thiên mình trước ngôi như
các Trưởng
Lão được chép trong sách Khải huyền,
vì
không mão triều thiên nào
xứng đáng
dành cho Chúa khi đến thờ phượng Ngài,
nhưng
Êsai còn thấy Chúa là Đấng
cực thánh
đầy vinh hiển nữa. Êsai nhìn thấy quang cảnh
các
sêraphin, là các thiên sứ hộ
giá Đức
Chúa Trời cùng nhau kêu lên
rằng:
«Thánh
thay, thánh thay, thánh thay, là Đức
Giêhôva vạn quân!»
(Êsai 6:3). Ba lần lập lại từ ngữ «thánh
thay,
thánh thay, thánh thay!»
ngoài ý
nghĩa nói lên Tam Vị Nhất Thể Thánh của
Ba
Ngôi Đức Chúa Trời, còn mô tả
theo
cách dùng tỉ cấp của từ ngữ Hêbơrơ
nói về sự
lủy tiến của sự thánh khiết tuyệt đối, vinh hiển uy linh của
Đức
Chúa Trời: Thánh, Chí thánh
và Cực
Thánh. Sự thánh khiết của Chúa cực kỳ
vinh hiển,
khiến «khắp đất đầy dẫy sự vinh hiển
Ngài»
(Êsai 6:3). Sự cực thánh chói rạng đến
nỗi
không ai lấy mắt trần mà nhìn được.
Các
sêraphin chỉ nhắc lại mấy chữ «thánh
thay»
thôi cũng làm cho
«các nền
ngạch của cửa rúng động, và đầy dẫy những
khói»
(Êsai 6:4). Riêng các sêraphin
là
các thiên sứ thánh túc trực
bên ngai
Chúa cũng phải sợ hãi lấy hai cánh che
mặt
và hai cánh che chân lại, vì
không thể
trực diện với sự thánh khiết quá tuyệt đối vinh
hiển của
Chúa.
Xưa Môise có lần cầu xin:
«Tôi xin
Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của
Ngài!» (Xuất 33:18), nhưng
Chúa phán:
«Ngươi
sẽ chẳng thấy được mặt ta, vì không ai thấy mặt ta
mà còn sống» (Xuất 33:20).
Rồi Ngài bảo:
«Đây
có một chỗ gần ta, ngươi hãy đứng trên
hòn
đá, khi sự vinh hiển ta đi ngang qua, ta sẽ để ngươi trong
bộng
đá, lấy tay ta che ngươi, cho đến chừng nào ta
đã
đi qua rồi. Ta sẽ rút tay lại, và ngươi thấy
phía
sau ta; nhưng thấy mặt ta chẳng được» (Xuất
33:21-23).
Không ai có thể lấy mắt trần mà
nhìn thấy
Chúa cực thánh được. Phaolô
trên đường
Đamách, chỉ thấy ánh sáng vinh quang
thánh
khiết của Chúa Cứu Thế Phục sinh thôi
mà phải
té xuống bất tỉnh, mắt bị mù ba ngày,
cho tới khi
Chúa sai Anania đến cầu nguyện ông mới thấy lại
được
(Công vụ 9:3-9).
Êsai trong khải tượng đã thấy sự thánh
khiết cực kỳ
của Chúa, nên có lời khuyên
dân sự
Chúa:
«Hãy
tôn Đức Giêhôva vạn quân
là
thánh, các ngươi chỉ nên sợ
Ngài và
kinh hãi Ngài» (Êsai
8:13). Phierơ cũng khuyên con cái Chúa:
«Hãy
tôn Đấng Christ, là Chúa,
làm thánh trong lòng
mình»
(I Phi 3:15), cùng tìm và bước đi theo
sự
nên thánh nữa, vì Kinh thánh
chép:
«Hãy cầu sự bình an với mọi người,
cùng
tìm theo sự nên thánh nữa,
vì không
nên thánh thì chẳng ai được thấy
Chúa»
(Hê 12:14). Người được Chúa tuyển chọn sai đi bao
giờ cũng
thấy dấu hiệu tôn Chúa là
thánh trong
lòng của người đó và sống cuộc đời
thánh
khiết trước mặt Chúa.
Tóm lại, người mà Chúa sai đi cho
công
tác vĩ đại của Ngài phải là người thấy
Chúa
ngồi trên ngôi cao sang, mời Ngài
làm
Chúa làm Chủ, làm Vua cho cuộc đời
mình,
phải thấy vạt áo Ngài đầy dẫy đền thờ, để hết
linh hồn,
hết lòng, hết trí, hết sức mà thờ
phượng
Ngài, và phải thấy Chúa là
Đấng Cực
Thánh mà tôn Chúa
làm thánh
trong lòng mình và bước đi với
Chúa trong
sự nên thánh. Chúa đang tìm
người đó
để sai đi. Chúng ta đã kinh nghiệm được ba điều
nầy chưa?
Chúa vẫn còn hỏi:
«Ta sẽ sai ai đi? Ai
sẽ đi cho chúng ta?».
Chúng ta có nghe tiếng Chúa hỏi chăng?
Chúng ta có đáp ứng được điều kiện của
Ngài
không?
II.
PHẢI LÀ NGƯỜI THẤY ĐƯỢC CHÍNH MÌNH
Người muốn được Chúa sai đi là người trước
tiên
phải thấy Chúa, nhưng chưa dừng ở đó, người ấy
còn
phải là người nhìn thấy được chính
mình
nữa. Cho đến khi nhìn thấy Chúa cực
thánh,
Êsai mới thật sự nhìn thấy rõ
mình.
A. Thấy mình
tội lỗi
Trước khi thấy Chúa, có lẽ Êsai tưởng
mình
là người có địa vị trong xã hội
và
giáo hội, là người công
chính hơn những
người khác. Có thể danh vọng, truyền thống đạo
đức
và sự tự cao là bức màn
che đưa
ông tới chỗ không nhìn thấy con người
thật của
mình. Cho đến một ngày ông
nhìn thấy
Chúa, vinh quang của sự thánh khiết
Ngài
làm tan biến bức màn che, ông thấy
rõ
chính mình, ông nói:
«Chúng
tôi hết thảy đã trở nên như vật
ô uế, mọi việc
công bình của chúng tôi như
áo nhớp;
chúng tôi thảy đều héo như
lá, và tội
ác chúng tôi như gió
đùa mình
đi» (Êsai 64:6). Êsai kể:
«Bấy
giờ tôi nói: Khốn nạn cho tôi! Xong đời
tôi
rồi! Vì tôi là người có
môi dơ
dáy , ở giữa một dân có môi
dơ dáy,
bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức
Giêhôva vạn quân»
(Êsai 6:5).
Êsai giờ đây thấy mình là một
tội nhân
đáng chết. Một trong những tội lỗi mà
ông nêu
ra là tội về lời nói: «có
môi dơ
dáy». Những lời nói ô uế,
nói
hành, nói xấu người khác,
nói gây
hiểu lầm, chia rẽ, những lời nói dối nhằm bảo vệ uy
tín
mình, những lời nói vu oan, giáng họa
làm
phương hại đến biết bao nhiêu người khác.
Không tội
lỗi nào xảy ra hằng ngày nhiều bằng tội từ miệng
lưỡi con
người. Có thể chúng ta không thấy,
có thể
chúng ta thấy mà chưa nhận ra đó
là tội
lỗi. Thánh Giacơ nói:
«Chúng
ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm. Nếu có ai
không vấp phạm trong lời nói mình, ấy
là
người trọn vẹn, hay hãm cầm cả mình»
(Giacơ
3:2). Rồi Giacơ phân tích:
«Cái lưỡi cũng như
lửa, ấy là nơi đô hội của tội ác ở giữa
các
quan thể chúng ta, làm ô uế cả
mình, đốt
cháy cả đời người» (Giacơ 3:6), Giacơ
nói tiếp:
«Cái
lưỡi không ai trị phục được nó, ấy là
một vật dữ
người ta không thể hãm dẹp được, dầy dẫy những
chất độc
giết người» (Giacơ 3:8).
B.Thấy mình
được Chúa tha thứ
Trước vinh quang cực thánh của Chúa,
Êsai thấy tội
lỗi mình thật đáng chết. Ông
kêu la tự
trách và tự rủa sả mình:
«Khốn
nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi».
Song tiếng
kêu đó cũng hàm chứa cả một
lòng ăn năn
thống hối trước dung nhan thánh khiết của Chúa.
Ông
nhớ lời Chúa phán: «Kẻ ác
khá bỏ
đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các
ý
tưởng, hãy trở lại cùng Đức
Giêhôva,
Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến
cùng Đức
Chúa Trời chúng ta, vì Ngài
tha thứ dồi
dào» (Êsai 55:7). Rồi
ông nghe tiếng thỏ thẻ:
«Hãy
tìm kiếm Đức Giêhôva đang khi
mình gặp được;
hãy kêu cầu đang khi Ngài ở
gần» (Êsai 55:6), tức
thì ông tìm
«thấy Vua, tức Đức
Giêhôva vạn quân» (Êsai
6:5). Ngài phán:
«Bây
giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận
cùng nhau. Dầu
tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như
tuyết;
dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông
chiên» (Êsai 1:18),
Êsai liền phủ phục dưới chân Chúa ăn năn
thống hối tội lỗi mình.
Ngay giờ phút ấy, ông nói:
«Bấy
giờ một sêraphin bay đến tôi, tay cầm than lửa đỏ
mà
đã dùng kềm mà gấp nơi bàn
thờ, để
trên miệng ta mà nói rằng: Nầy,
cái nầy
đã chạm đến môi ngươi; lỗi ngươi được bỏ rồi, tội
ngươi
được tha rồi» (Êsai 6:6-7). Sung
sướng quá,
Êsai được Chúa tẩy rữa tội lỗi, được tha thứ
hoàn
toàn bằng thứ lửa thánh lấy ra từ bàn
thờ.
Kinh thánh chép:
«Vì mọi
người đếu đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời» (Rôma 3:23),
và
«tiền
công của tội lỗi là sự chết» (Rôma
6:23). Cũng giống như Êsai, chúng ta là
những tội
nhân đáng chết đời đời trong hỏa ngục bởi những
tội lỗi
của mình, trong đó cũng có những tội
làm
cho «môi dơ dáy». Nhưng phước
hạnh thay cho
chúng ta, Đức Chúa Trời lấy huyết
thánh của Đức
Chúa Giê Xu, Con độc sanh Ngài đổ ra
trên
thập tự giá rữa sạch mọi tội của chúng ta (I
Giăng 1:7),
nhờ đó chúng ta được cứu chuộc và được
Ngài
giao phó trọng trách
«Hãy đi
khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người»
(Mác 16:15). Chúng ta biết mình
có tội,
nhưng chúng ta cũng phải kinh nghiệm thế nào
mình
được tha tôi.
Có chuyện thuật rằng, lần kia ma quỉ đến với Martin Luther,
nhà cải chánh giáo hội, trong tay cầm
một cuộn
giấy lớn viết cả hai mặt.
Luther hỏi:
-Cái gì đó?
Satan đáp:
-Đây là bản ghi chép tội lỗi của ngươi!
Luther xem xét bản ấy tường tận, thấy rằng câu
đáp
của ma quỉ rất đúng. Quả thật những tội lỗi mà
ông
quên từ lâu đều ghi chép ở
đó, và
ông phải nhận rằng mình có tội.
Luther hỏi Satan:
-Nầy, chỉ có chừng đó thôi sao?
Satan đáp:
-Ồ, không! Còn nữa. Còn một cuộn giấy
nữa!
Luther nói:
-Ngươi hãy đem đến đây cho ta!
Một lúc sau, ma quỉ trở lại, đem theo một cuộn giấy giống
như
cuộn trước. Luther thừa nhận mình có tội y như
đã
chép.
Luther hỏi tiếp:
-Hết chưa?
Satan đáp:
-Chưa, còn một cuộn nữa!
Luther bảo:
-Ngươi hãy đem đến đây cho ta luôn thể!
Chẳng mấy chốc ma quỉ trở về, đem đến một cuộn giấy thứ ba. Luther xem
kỹ càng, rồi thú nhận:
-Phải, hết thảy là tội của ta. Ta đã phạm từng
mỗi tội đó. Có còn tội nào
nữa chăng?
Satan hớn hở đáp:
-Không, chỉ có thế thôi!
Luther bình tỉnh đi đến bàn giấy, lấy
bút chấm
vào bình mực đỏ, rồi cầm lấy từng cuộn giấy
chép
tội mình, viết ngang qua từng mỗi cuộn giấy, như sau:
«Huyết của Đức
Chúa Giê Xu, Con Ngài, làm
sạch mọi tội chúng ta» (I Giăng 1:7).
Martin Luther viết như thế vì đã thấy
mình được
huyết Chúa đụng chạm xóa hết mọi tội rồi.
Ông
hoàn toàn được tha thứ. Và bởi kinh
nghiệm ấy,
Chúa sai ông đi cho công tác
trọng đại của
Ngài. Kêu gọi con dân Chúa
khắp mọi nơi trở
về với sự cứu rỗi bởi đức tin và với lời hằng sống của
Chúa.
III.
PHẢI LÀ NGƯỜI THẤY ĐƯỢC TÌNH CẢNH ĐẤT NƯỚC
VÀ DÂN TỘC MÌNH
Êsai sau khi thấy Chúa, thấy mình,
Chúa cho
ông thấy khải tượng về đất nước và dân
tộc
mình. Một dân tộc «chẳng hiểu chi, chẳng
thấy
chi», một dân tộc bị «héo
lòng, nặng
tai, nhắm mắt» (Êsai 6:9-10), nghĩa là
cứng
lòng, bội nghịch, không chịu nghe lời Đức
Chúa
Trời, không chịu trở lại cùng Ngài.
Từ Câu 11-13 của Êsai đoạn 6, mô tả đất
nước
thì tiêu điều, các thành
hoang vu. Dân
sự sắp bị đày đi xa, một số còn lại
trên xứ sở
thì bị đàn áp, bốc lột,
thiêu nuốt.
Đó là tình trạng của dân tộc
Ysơraên.
Êsai có sự hiện thấy như thế. Vì vậy,
ông sẵn
sàng nói với Chúa:
«Có
tôi đây, xin hãy sai
tôi» (Êsai 6:8).
Là người được cứu rỗi trong danh Chúa Cứu Thế
Giê
Xu, chúng ta đã thấy Chúa, thấy
mình, nhưng
chúng ta có thấy tình cảnh của đất
nước, của đồng
bào, của các dân tộc trên thế
giới nầy
không? Họ sống trong tội lỗi, mê tín dị
đoan, thờ ma
lạy quỉ, xa cách Đức Chúa Trời, chối bỏ
Ngài, cứng
lòng, bịt tai, nhắm mắt không nghe,
không thấy
Ngài, thậm chí họ không biết
có Ngài,
phủ nhận Ngài, và nếu có ai biết
Ngài
thì liền bị họ trù dập, bắt bớ, tù
đày,
giết chết. Đức Chúa Trời muốn những người thấy
Chúa, thấy
mình, hãy hướng về đất nước, dân tộc
mình,
đồng loại mình mà nghe tiếng kêu gọi
của
Chúa:
«Ta
sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?»
mà đáp với Chúa:
«Có
tôi đây, xin hãy sai
tôi».
Có người thuật chuyện rằng, một bữa nọ Mục sư Hedding ở New
York
hỏi một chàng thanh niên muốn xin đi truyền
giáo ở
nước ngoài:
-Anh có biết rằng anh phải lìa xa nhà
cửa, xa cha
mẹ, xa bạn bè đi sống với những người xa lạ thù
nghịch
với Chúa ở nước ngoài chăng?
-Thưa, tôi biết rõ.
-Anh có xét thấy mình phải từ
giã quê
cha đất tổ luôn với các đặc quyền của
mình, phải
kiều ngụ ở ngoại quốc là nơi mỗi người nhìn anh
với con
mắt nghi kỵ, thiên lệch chăng?
-Thưa, tôi đã xét thấy hết tất cả rồi.
-Anh đã xét thấy trong xứ đó, sức khỏe
anh
có lẽ sẽ kém sút, và anh
có thể bị
sốt rét cùng nhiều chứng bệnh khác
làm
phương hại tới mạng sống anh chăng?
-Thưa, tôi đã xét rõ. Nếu
có một
ngàn mạng sống, tôi sẽ dâng hết cho
Chúa Cứu
Thế Giê Xu tôi. Thưa ông, xin đừng hỏi
tôi
câu nào khác nữa, xin hãy cử
tôi đi,
xin hãy sai tôi đi!
Xin Chúa cho chúng ta nghe được tiếng gọi của
Ngài
để trở thành người được Chúa sai đi đem Tin
Lành
cứu rỗi của Chúa đến chẳng những cho dân tộc
mình
mà còn cho nhiều dân tộc
khác trên thế
giới nữa.
Đuốc
Thiêng 103
01
Tâm
trí con người; -
ĐTPÂ
02
Thơ: Xin
Chúa sai con đi - Đức Huy
03
Người được
Chúa sai đi - Mục sư Nguyễn Văn Bình
04
Người
đàn bà ở Thêcôa
- Bà Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Tiểu sử
Thánh ca: "Giê-xu Đấng hằng yêu thương
tôi"
- Fanyia
06
Thơ:
Yêu Chúa - Trần Nguyên Lam Bửu
07
Tìm
hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther
- Diệp Dung
08
Điều rất
cần cho chúng ta
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử
- Lạc Hồ
10
Một
vài loài cây có độc
tính - Dr Trương Hoàng Lâm
11
Vật đổi
sao dời - Bà Lê Văn Bắc
12
Xứ Do
Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng
tác - Mai Đào
13
Tin Tức
- Vinh Bằng