TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Xứ Do thái hồi Chúa Giê Xu sanh ra
Tác-giả: Roger
CARATINI
Sách: Jesus, de Bethléem à Golgotha,
ấn bản 2003, nhà xuất bản L'Archipel, Paris
Trích dịch: Mai Đào
(Xem từ Đuốc Thiêng 86)
Đuốc Thiêng 97, tháng 10 năm 2008
Lưu ý độc giả: Khi viết sách
nầy, tác giả Roger CARATINI có dụng ý
giúp cho độc giả ôn lại cách mau lẹ
những sự cố quan trọng trong lịch sử dân Do thái.
Trong sách nầy, những sự cố trong Kinh Thánh pha
trộn với các sự cố của lịch sử và dã
sử. Độc giả muốn nhận ra sự cố nào có
chép trong Kinh Thánh, xin theo các
chú thích (a), (b), (c),. có ghi Kinh
Thánh, sách ..., đoạn ...).
Tóm tắt các kỳ trước: Đế quốc
Rô ma cử một thanh tra tên là Marcellus
đến tìm hiểu tình hình xứ Do
thái. Thanh tra Marcellus n?y được một thương gia
tên là Hiram hướng dẫn, khởi hành từ
Damas thủ đô xứ Syrie, đến xứ Galilê, vô
triền sông Jourdain, tới thành phố Gerasa,
vô xứ Samarie, rồi từ xứ Samarie đến Jerusalem sau
đó đến Bết lê hem, nghe kể chuyện về
Chúa Jesus sanh ra.
Chương 7: Di tản qua Egypte
Thời gian: tháng 5 đến tháng
12 năm 4 T.C. (năm 750 lịch Rô ma)
Toát yếu chương 7
*Một chứng nhân (không đáng tin mấy) kể
với Marcellus rằng mình đã theo chân
Gia đình Thánh di tản qua Egypte.
*Mùa xuân năm 4 S.C, ở Jerusalem, Archelaus tự
phong làm vua xứ Do thái; mọi sự trôi
chảy buổi đầu.
*Vua mới nầy từ chối không phục hồi danh dự cho bọn Judas con
Sariphée đã bị vua Herode giết khi vua nầy gần
chết.
*Cuối mùa xuân năm 4 S.C.; nổi loạn ở Jerusalem,
ba ngàn người chết.
*Marcellus trở về Rome, báo cáo lên
hoàng đế Auguste về tình hình
chánh trị ở Jerusalem.
Người chứng nhân cứng cổ
Người đứng trước mặt Marcellus có tên
là Matthias. Anh nầy là một trong số ba người đi
theo Joseph khi di tản qua Egypte. Giờ đây, khi y nghe tin
Hérode đã chết, tức là y
không còn sợ bị giết, y lật đật trở về xứ Do
thái trước mọi người; Marcellus muốn biết tin về Joseph
và cô vợ trẻ, liền cho kêu Matthias đến.
Khi Matthias đến, thấy Marcellus ngồi trước bàn
làm việc, tay mặt cầm một ngọn bút bằng sậy, chấm
bút vào bình mực đen lánh,
đang lanh lẹ viết trên những tờ giấy trắng mịn.
Marcellus nói:
Ngồi đây anh Matthias. Chắc là chúng ta
sẽ nói chuyện lâu với nhau. Tôi sẽ ghi
lại những điều anh kể về cuộc di tản của anh cùng đi với
Joseph và Marie qua Egypte. Nhưng trước khi kể,
tôi giới thiệu với anh, đây là Hiram,
bạn tôi, người gốc xứ Phinixi (Phinicie), theo đạo Do
thái cũng như anh. Hiram nầy cũng làm một việc
như anh, tôi nhờ anh nầy hướng dẫn khi cần di chuyển trong xứ
Palestine.
Matthias nói: Thưa quan, xin nói "trong xứ Giu
đê", không phải là trong xứ Palestine.
Tên Palestine là do dân Philistins xưa
kia, họ dùng tên nầy để kêu
vùng đất Đức Chúa Trời đã hứa cho
dân Do thái. Đất nầy thuộc về chúng
tôi đã từ 1300 năm, chúng tôi
yêu xứ nầy như yêu mẹ mình,
và dân Philistins nay đâu còn
nữa.
Hiram kín đáo ra dấu cho Marcellus,
nói nhỏ:
Thôi quan đừng mất thời giờ. Người Do thái tin
quyết như thế đấy, và họ có lý, tin
rằng đất Canaan hiện nay là của họ, phần khác,
dân Philistins cũng biến mất khỏi lịch sử rồi, cho
nên họ không chấp nhận người Rôma
kêu xứ họ là Palaestina.
Marcellus không nói gì, nghĩ rằng
lúc nầy chuyện quan hệ là biết tin tức về Joseph,
không phải là lúc kiểm tra dữ kiện địa
dư xứ Palestine. Marcellus hỏi:
Nào, anh tên là Matthias, là
dân Do thái. Anh thuộc về đại tộc nào,
Juda, Benjamin, Manassé...?
Ông nội,và bà nội tôi
là dân nô lệ gốc Galates, đến thời cha
tôi thì được hoàng đế Pompée
giải phóng; cha tôi gia nhập Do thái
giáo để được cưới mẹ tôi, bả là người
nữ Do thái ở Samarie.
Marcellus mỉm cười: "Chuyện giản dị thế thôi, tốt lắm. Anh đi
Egpyte cùng với Joseph, phải không?"
Thưa phải. Joseph cần người giúp đỡ để mang hành
lý, và chống cự khi gặp kẻ cướp, tính
ra cần mướn ba người phụ, nhưng không có tiền
mướn. Tôi và 2 người bạn đồng ý phụ
giúp ảnh mà không cần lãnh
lương, vì chúng tôi tin chắc rằng con
của ảnh mới sanh, là Đấng Thánh của Đức
Chúa Trời sai đến.
Vì sao anh tin chắc như thế?
Như tôi đã nói, mẹ tôi
là người xứ Samarie. Bả tin rằng thế giới ngày
nay đầy dẫy chiến tranh và bất công, nhưng nay mai
sẽ được cải thiện vì Đấng Toheb sắp đến, Ngài
là Đấng được xức dầu của Đức Chúa Trời,
là Đấng Mêsia của Đức Chúa Trời.
Ta cũng từng nghe nói về Đấng Toheb, khi ta ghé
thành phố Sichem ở Samarie. Vậy hồi đó anh cũng
tin rằng em nhỏ Jesus là Đấng Toheb?
-Thưa quan, hồi đó tôi tin, và
ngày nay tôi vẫn tin. Cả hai bạn đồng
hành của tôi cùng với tôi đi
Egypte hầu hạ Joseph,họ cũng tin như tôi.
-Và chắc là vợ anh cũng tin như thế, bởi
vì vợ anh từ Samarie đến.
-Dạ đúng, vợ tôi từ Samarie lại, vì
cô Marie mới sanh con, cần có người hầu.
-Tốt. Thế là bọn anh tất cả 4 ngườ theo Joseph và
Marie đi. Anh có nhớ phỏng chừng là lên
đường vào ngày tháng nào?
-A, chúng tôi ra đi lúc ban
đêm, nhằm hướng Egypte, sau khi mấy ông
bác sĩ đến thờ lạy Jesus ở Bethlehem và trước
cuộc thảm sát các trẻ em ở làng
đó.
-Kể lại tôi nghe về hành trình trong sa
mạc. Các anh ra đi nhắm hướng nào?
-Nhắm hướng tây. Trước hết, chúng tôi
tới một cái hang núi. Cô Marie muốn
vô nghỉ. Cổ xuống lừa, vô trong hang ngồi, đặt
bé Jesus trên đầu gối. Chợt từ phía
trong hang có mấy con rồng xông ra,
chúng gầm gừ, ai nấy đều sợ, trừ bé Jesus.
Bé Jesus từ đầu gối mẹ đứng lên, dầu chỉ mới sanh
ra không lâu, đúng trước mặt mấy con
rồng. Bọn rồng cũng làm giống như con bò
và con lừa nơi máng cỏ, chúng quỳ
xuống trước bé Jesus. (lời dịch giả: về chuyện kể
trên đây và những chuyện kế tiếp,
quý độc giả tin hay không tùy
lòng; ước vọng của dịch giả, là đức tin của
quý vị vẫn trước sau như một, và xin nhớ rằng
đây chỉ là huyền thoại. Huyền thoại về
các giáo chủ có nhiều, xin kể cho vui
huyền thoại về Đức Phật Thích ca khi sanh ra. Phật
Thích ca khi sanh ra tên la Gautama. Mẹ Gautama
mang thai tới 3 năm rồi mới sanh. Gautama sanh ra, chui ra khỏi bụng mẹ
bằng cửa bên hông, bước xuống đất bẩy bước,
có bông hoa sen mọc lên và nở
ra ở mỗi chỗ đặt chơn, sau bảy bước thì đứng lại, chỉ một
tay xuống đất, chỉ một tay lên trời và
nói: Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc
tôn, nghĩa là trên trời dưới đất, chỉ
có mình ta đáng được tôn
kính).
Marcellus quay lại hỏi Hiram: "Anh nghĩ sao?"
Hiram đáp: "Tôi chợt nghĩ rằng Matthias
đã đọc chuyện nầy trong Kinh Thánh, anh ta đọc
câu Thi thiên: Hỡi các quái
vật trong biển, hỡi các vục sâu, từ nơi dưới đất,
các ngươi hãy thờ lạy Đức Giê
hôva". (1)
Marcellus nói: "Matthias, anh kể tiếp đi".
-Rồi Chúa Jesus đi về phía các con
rồng, để chúng khỏi làm hại mọi người.