TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Giêrusalem, 4000 năm lịch sử
Nguyên tác:
sách "Les croisades vues par les arabes" - Thập tự chinh
dưới mắt người A rập. Nhà Xuất bản: JC Lattès,
Paris, 1983
Tác giả : Amin Maalouf
Trích dịch : Lạc Hồ
(coi Đuốc Thiêng từ số 3)
Đuốc Thiêng 97, tháng 10 năm 2008
Chương 51/4 : Hai ngàn ngày trước tripoli
Liên minh Frank và Hồi giáo,
chống liên minh Hồi giáo và Franj
Nhưng chuyện không chỉ có thế. Chúng ta
sẽ nghe một chuyện ly kỳ không thể tin được, xảy ra 4 năm
sau, là chuyện Liên minh Frank và Hồi
giáo, chống liên minh Hồi giáo
và Franj.
Tháng 10 năm 1108, chúng ta chứng kiến một cảnh
tượng đặc biệt, nơi một cánh đồng trồng cây mận,
mận vừa chín tới. Xung quanh cánh đồng,
là những ngọn đồi nối tiếp nhau đến tận chân trời.
Trên một ngọn đồi, là vòng tường
thành của thị trấn Tell Bacher, gần vòng tường
thành nầy, có hai đạo quân đang
dàn trận để đánh nhau.
Một bên là Tancrède đến từ Antioche,
gồm 1500 kỵ binh và bộ binh, đầu đội mũ sắt che
kín cả mũi, tay cầm gươm, chùi, búa;
bên cạnh,là 600 kỵ binh người Turc, do Redwan, vua
Alep gởi đến.
Phe bên kia, ta thấy Jawali, chủ thành Mossoul,
bên trong mặc áo giáp, bên
ngoài khoác áo choàng
thêu, cầm đầu 2 ngàn binh sĩ, chia
thành 3 đội: bên trái là đội
người Ả rập, bên phải là đội người Turcs, ở giữa
là đội kỵ binh quân Franj, trong số nầy ta thấy
Baudoin2 chủ thành Edesse và người bà
con tên là Jocelin, chủ thành Tell
Bacher.
Với những ai đã tham gia trận chiến 10 năm trước
đây ở cuộc chiến đấu tại Antioche, khó
có thể tưởng tượng ra việc vua hồi giáo
thành Mossoul lại liên minh với bá tước
Franj chủ thành Edesse, để chống lại một liên minh
giữa vua hồi giáo thành Alep và tuớng
Franj ở thành Antioche. Vì sao có
chuyện ngược đời nầy?
Chúng ta còn nhớ rằng tháng 5 năm
1104, tướng Franj Baudouin2, chủ thành Edesse, bị Jekermich
bắt và cầm tù ở Mossoul. Đến năm 1107, Jekermich
bị lật đổ, quyền hành ở Mossoul về tay tướng Jawali. Jawali
rất thông minh, nghĩ rằng nếu 2 tướng franj chống lại nhau
thì mình sẽ có lợi nhiều
bèn thả Baudouin2 ra, tặng cho y phục khách
quý, lại còn lập liên minh với
Baudouin2 và nói đại ý: "Địa phận của
anh là Edesse bị người ta chiếm, địa phận của tôi
là Mossoul cũng không chắc chắn mấy, vậy
chúng ta hãy giúp đỡ nhau".
Sử gia Ibn al Athir chép: "Bá tước al Comes
Bardawil (tức là Baudouin2) vừa được thả ra, liền đến
Antioche gặp Tancrède, để đòi lại Edesse.
Tancrède tặng cho Baudouin2 nhiều thứ, nào tiền
dinars 30 ngàn, nào ngựa, khí giới,
quần áo, nhưng không trả Edesse. Trong khi
Baudouin2 bị cầm tù, Tancrède đã chiếm
Edesse cho mình, có nghĩa là y
đâu có muốn Baudouin2 sớm được thả về; y
còn ngầm điều đình với Jekermich cứ cầm
tù Baudouin2 càng lâu càng
hay. Khi Baudouin2 nổi giận, rời khỏi Antioche, thì
Tancrède đi theo, ráng làm cho
Baudouin2 đừng liên lạc lại với Jawali. Hai người
có đụng độ nhau lai rai, nhưng sau mỗi vụ đụng độ, họ lại
ngồi ăn và nói dóc với nhau! Hẳn
là họ điên. Họ không chịu nhau, rồi họ
yêu cầu thượng phụ của họ (cũng giống như émir
cùa chúng ta) làm trung gian
hòa giải. Thượng phụ lập một ủy ban điều tra gồm
các giám mục và linh mục, ban nầy
xác nhận rằng tướng Bohemond là chú
của Tancrède, khi xuống tầu về Âu châu,
đã căn dặn Tancrède hãy trả Edesse cho
Baudouin2 khi nào được thả về. Tancrède chấp
thuận sự hoà giải, trả Edesse cho Baudouin2".
Baudouin được thắng lợi, nghĩ rằng thắng lợi chẳng phải vì
Tancrède có lòng tốt, nhưng
vì sợ Jawali can thiệp. Tất cả mọi tù
nhân hồi giáo trong địa phận mình,
Baudouin cho giải phóng hết, lại còn xử tử một
nhân viên cơ đốc, vì đã
công khai chửi hồi giáo. Chuyện liên
minh kỳ quặc nầy giữa một tướng Franj với một vua hồi giáo
(Baudoin với Jawali) làm cho Tancrède bực tức
đã đành, mà còn
làm bực mình các lãnh tụ
khác nữa. Redwan, vua thành Alep, viết thơ cho
Tancrède hãy coi chừng lòng tham
và sự quỷ quyệt của Jawali. Rằng Jawali muốn chiếm Alep.
Rằng nếu Alep bị Jawali chiếm, thì quân Franj sẽ
chẳng còn được ở lại xứ Syrie. Một vua hồi giáo
bận tâm đến chuyện an ninh của quân Franj,
có vẻ là chuyện ngược đời, nhưng trong lĩnh vực
chánh trị, chuyện thứ nầy không thiếu. Thế
là có hai liên minh chống nhau,
và do đó, tháng 10 năm 1108,
có hai đoàn quân đối diện nhau dưới
tường thành Tell Bacher.
Trận chiến Tell Bacher và quân Franj
thắng thế
Phe nào thắng trong trận chiến Tell Bacher? Phe Antioche
và Alep. Phe kia chưa đánh đã chạy.
Jawali trốn mau. Rất nhiều quân hồi giáo chạy về
phía Tell Bacher, được Baudouin và Jocelin săn
sóc tử tế, chữa những kẻ bị thương, cho họ quần
áo mới, đưa họ về xứ. Nhưng dân cơ đốc
Arménien trong thành không thuận với
bá tước Baudouin. Họ được tin là Baudouin thua
trận, và chắc họ tin là Baudouin đã
chết trận, họ tính chuyện thoát khỏi
ách của tây phương, họ thành lập một ủy
ban hành chính để cai trị thành phố.
Baudouin về tới nhà, thấy vậy, sai chọc cho mù
mắt các thành viên ủy ban, gồm nhiều
trưởng lão và linh mục trong thành.
Jawali, kẻ liên minh với Baudouin, cũng gặp trường hợp tương
tự. Dân chúng trong thành Mossoul nghe
tin y thua, họ chống lại y. Y muốn làm như Baudouin, nhưng
không được, mất hết, mất địa phận, mất quân đội,
mất kho bạc, lại còn bị Sultan Mohammed ra lịnh truy tầm.
Nhờ y khôn khéo, đến năn nỉ, rốt cuộc sultan
Mohammed tha tội, rồi cử y đi cai trị một thành phố
khác ở xứ Perse.
Về phần Tancrède, chiến thắng 1108 đưa y đến tột đỉnh vinh
quang. Antioche nay là "cường quốc", tất cả mọi
vùng lân cận đều sợ, hoặc Turc, hoặc Arabe,
Arménien, Franc. Vua Redwan chỉ kể là một chư hầu
sợ hãi. Cháu của Bohemond (Tancrède)
tự xưng là "émir lớn" (grand émir).
Trận chiến Tell Bacher làm nổi danh quân Franj đến
nỗi chỉ vài tuần sau đó, vương quốc Damas
ký hòa ước với Jerusalem: lợi tức các
vùng canh nông ở giữa hai thủ đô nầy, từ
nay chia làm ba, một phần cho quân Turc, một phần
cho quân Franj, một phần về người nông
dân, sử gia Ibn al Qalanissi chép như thế.
Vài tháng sau, Damas còn ký
một hiệp ước nữa về một vùng rộng lớn hơn, là
cánh đồng phì nhiêu Békaa, ở
phía đông núi Liban, cũng đem chia lợi
tức với Jeusalem. Trên thực tế, Damas hoàn
toàn bất lực, lợi tức về canh nông thì
chia cho quân Franj như nói trên, lợi
tức về thương mại thì nằm trong tay những thương gia người
Ý ở hải cảng Acre. Tất cả xứ Syrie, từ bắc đến nam,
có thể nói là dưới tay quân
Franj.
Nhưng quân Franj đâu có ở yên
sau chiến thắng 1108. Họ khởi đầu một chiến dịch xâm lăng
mới, nhắm vào tất cả mọi thành phố nơi bờ biển
và chẳng ai có gan đối đầu.
Nhằm hải cảng Tripoli. Tướng Saint Gilles chết
Điểm thứ nhứt họ nhắm, là hải cảng Tripoli.Ngay từ năm 1103,
tướng Saint Gilles đã đem quân tiến tới
sát Tripoli, xây một pháo
đài, dân trong thành đều kêu
là pháo đài Saint Gilles ; đến thế kỷ
20, còn thấy "Qalaat Saint Gilles" nằm giữa thành
phố Tripoli hiện đại. Hồi đó, hầu hết hoạt động của
dân chúng là ở bán đảo
trên biển, pháo đài kia kiểm
soát lối vào bán đảo. Bất cứ
đoàn thương mại nào ra vào hải cảng
đều phải qua tay pháo đài Saint Gilles.
Chủ thành phố là cadi Fakhr el Moulk,
tìm đủ cách để triệt hạ pháo
đài nầy, vì nó bóp nghẹt
thành phố. Đêm đêm y cho quân
phá hoại, hoặc giết lính canh, hoặc
phá đổ một bức tường. Tháng 9 năm 1104,
có hành động đáng kể nhứt, họ giết
nhiều quân Franj, đốt cháy một phần
pháo đài, chính tướng Saint Gilles bị
kẹt trong lửa, bị phỏng nặng gây nhiều vết thương, do
đó chết 5 tháng sau. Trong khi hấp hối, y mời đại
diện của Fakhr el Moulk, đưa đề nghị: nếu quân Tripoli
thôi không phá hoại pháo
đài, thì quân Franj thôi
không làm phiền các đoàn
thương mại. Đề nghị nầy được Cadi chấp thuận.