TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Ngày xưa nỗi nhớ - Bà Lê Văn Bắc
Đuốc Thiêng 97,
tháng 10 năm 2008
Chiều nay, bầu trời treo lơ lửng xám đen trên
những chóp building ở DownTown. Sự tĩnh lặng nằm mơ
màng trên những ngọn cây.
Không khí như thể chất đầy sự tử tế độ lượng, sự
vuốt ve trinh bạch lạnh lùng. Xa xa, một khoảng
chân trời đẹp lạ lùng với nhiều màu
sắc: tím ngắt, xanh trắng đỏ như một bản dạo khúc
giao hưởng êm dịu. Thuỳ Linh ngồi nơi bàn
giáo viên lật lật những trang sách
Toán, vừa ngó trời qua ô cửa sổ rộng
thênh thang.
Trời vào thu, khí hậu dịu dàng hơn với
những cơn gió thú, những trận mưa thu, những
đêm trăng thu khiến Thùy Linh nhớ rất nhiều những
ngày tháng cũ trên quê
nhà. Kỷ niệm đôi lúc ùa về
làm lòng nàng nhớ quay quắt! Mấy
mùa thu trước, trời xanh vời vợi, mây trắng
xây thành từng hàng đủ hình
dạng, mà bây giờ chỉ có mấy
đám mây xám đang bò chầm
chậm trên bầu trời. Lớp học im ẳng, chỉ nghe những tiếng xột
xoạt lướt trên tờ giấy trắng của các học sinh đang
làm bài.
-Thưa cô, em nộp bài.
Thùy Linh giật mình quay lại nói tiếng
Anh với em học sinh đó.
-Để trên bàn cho cô. Cám ơn
em.
Em học sinh nầy "dạ" một tiếng rồi đặt tờ giấy kiểm tra lên
bàn cô giáo và đi th?ng về
chỗ ngồi. Thùy Linh ngó theo em học sinh Việt Nam
có gương mặt bầu bĩnh dễ thương, lòng dạt
dào thương mến. Một thoáng kỷ niệm trở về,
cái trạng thái lâng lâng dịu
nhẹ của đất trời mùa thu xứ người, cái trạng
thái man mác bâng khuâng,
buồn buồn của lòng người viễn xứ khi mùa thu đến.
Thùy Linh đọc nho nhỏ:
Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng.
Vàng rồi! Vàng rồi!... thu mênh mang.
(Bích Khê)
Thật khó mà tìm được ngôn
ngữ diễn tả tâm trạng mỗi độ thu về. Vậy đó,
gió đầu mùa thu đã mang lại
cái xa vắng, thân thương cùng nỗi
lòng tê tái. Trong mênh
mông trần thế, đó là khoảng nhập
nhòa giữa tháng ngày hoài
niệm xa vời.
Gần bốn mươi tuổi, nhưng Thùy Linh trông
còn trẻ lắm, ngoài mái ấm gia
đình và Hội Thánh, nàng chỉ
lo cho lũ học trò của nàng. Thùy Linh
say sưa với công việc dạy học. Đó là
một gia đình lớn của nàng. Những lũ học
trò lần lượt xa nàng, hết lớùp nầy
sang lớp khác, chỉ có nàng
là người ở lại. Chúng xa nàng.
Chúng đang lớn lên với cuộc đời đầy
chông gai, cám dỗ trên một đất nước văn
minh, tiến bộ, không như trên quê hương,
các em thiếu thốn mọi bề. Học sinh trên xứ người
không như học sinh ở đất nước ta, dễ yêu biết dường
nào, dầu sao đi nữa, Thùy Linh cũng vui với lớp
học nàng đang hướng dẫn. Thùy Linh mỉm cười
nhìn chúng với đôi mắt long lanh,
lòng dâng lên một niềm vui
khó tả.
Những lúc ra về, nhìn những học sinh chạy nhảy
đằng trước, tim Thuỳ Linh thoắt lại, đâu đó vẫn
còn bóng Thùy Linh và
các bạn khi còn ở quê nhà...
Thùy Linh ước gì thời gian dừng lại một
chút... Và khi Thùy Linh bước ra khỏi
cổng trường, rời căn nhà thân yêu, xa
vòng tay âu yếm của bà nội, bước vội
lên máy bay... nàng đã leo
lên được con dốc của cuộc đời. Cuộc sống không phải
bao giờ cũng dừng lại một chỗ, kéo theo con người cũng phải
đổi thay cùng cuộc sống.
Đêm đã tối dần, đến cả các
vì sao cũng không còn ánh
sáng. Thùy Linh trầm tư ngó
lên bầu trời đầy sao, lặng lẽ cầu nguyện, bốn bề vẫn tối đen,
một chút âm thanh cũng không
có. Lòng Thùy Linh buồn man
mác. Cô đơn! Một sự cô đơn
khó lòng cưu mang, khó hiện hữu trong
nàng. Thùy Linh tự dạy mình
cách yêu cuộc sống trong tính
toàn vẹn của nó, thăng hoa nó
vào cõi vĩnh hằng. Thật tuyệt đối cho cuộc đời.
Thùy Linh không biết mình nằm
trên giường bao lâu, cuối cùng
nàng cũng từ từ ngồi dậy, đầu hơi choáng
váng, tứ chi rã rời. Trong nhà
vô cùng vắng lặng. Nàng đi đến
bên cửa sổ nhìn xuống đường. Chồng và
hai con vẫn chưa về. Cha mẹ chồng đã ngủ từ lâu.
Ông bà thương quí cháu nội
lắm, mỗi lần đi chợ, phân nửa thức ăn là
bánh kẹo đủ thứ cho hai con nàng. Ông
bà không hề rầy la con cháu. Cứ mỗi lần
hai con nàng bị cha mẹ rầy la, thì vội chạy
vào phòng ông bà hầu
tìm sự che chở. Mỗi lần nhìn thấy cha mẹ chồng
cưng chìu hai con như thế, Thùy Linh nhớ nhiều về
ông bà nội của nàng...
Từ những ký ức xa xôi thăm thẳm, Thùy
Linh thấy hiện lên hình ảnh thân thương
của ông bà nội, nhất là bà.
Bằng ấy hình ảnh. Bằng ấy nỗi niềm, rất nhanh
chóng và rất rõ ràng thi
nhau làm tê tái lòng
nàng. Thùy Linh chóng tay
lên cằm nhìn di ảnh ông bà
thở dài, rồi nhìn bầu trời đêm u
ám ngoài kia... Và một cảnh xa
xôi thoáng hiện ra trước những giọt nước mắt rưng
rưng...
Thùy Linh mồ côi cha ngay từ lúc lọt
lòng. Khi mẹ Thùy Linh đang mang thai,
thì ba Thùy Linh bị tử trận ở chiến trường
vào năm 1974. Sanh Thùy Linh được ba
tháng thì mẹ nàng ngã bệnh,
khi đem đến Bệnh viện thì mẹ nàng đã
mê mang không còn nhận biết ai nữa.
Bà nội Thùy Linh khuỵ xuống như thân
cây gặp cuồng phong. Tiếng nấc nghẹn đi cũng là
lúc đôi mắt mẹ nàng khép
kín. Một mất mát quá to lớn ập đến gia
đình. Cuộc sống bình an thường nhật
không bao lâu đã tan vỡ. Trong bối cảnh
đó, mọi người thân đều nhỏ lệ khóc
thương cho Thùy Linh còn quá nhỏ
mà đã mồ côi cha mẹ. Chiến tranh
đã cướp mất ba Thùy Linh mà vẫn
không tha cho mẹ nàng.
Cảm tạ ơn Chúa, trong hoàn cảnh côi
cúc đó, Chúa đã thương
xót ban cho Thùy Linh một người bà đầy
lòng nhân ái. Khi lớn lên,
Thùy Linh hiểu sự thiếu vắng cha mẹ là nỗi bất
hạnh trong đời một con người. Những câu chuyện Kinh
Thánh ngọt ngào, phước hạnh; những chuyện dạy dỗ
đầy tính giáo dục của bà đã
nuôi lớn tâm hồn Thùy Linh ngay từ khi
còn nhỏ. Như con thuyền chở nặng giữa dòng đời
khổ cực. Bà đã gánh vác hy
sinh chịu biết bao khó nhọc để nuôi 7 người con
khôn lớn, ba Thùy Linh là con trai
trưởng. Sự trưởng thành của Thùy Linh được trơn
láng bằng nguồn mồ hôi, nước mắt của bà
từ công lao dưỡng dục. Thùy Linh học được từ nơi
trái tim của bà về tình yêu
thương người thật đậm đà và Thùy Linh
lớn lên trong yêu thương vô bờ bến
đó.
Mặt nước hồ thu dẫu có êm ái đến
đâu vẫn còn có gợn nước lăn tăn trong
gió, nhưng bà của Thùy Linh sống
ôn hòa hơn cả mặt nước hồ thu. Bà gần
60 nhưng còn khoẻ mạnh lắm. Hằng đêm
trên xứ người, Thùy Linh luôn cầu nguyện
hằng đêm xin Chúa ban sức khoẻ cho ông
bà sống lâu để có ngày
Thùy Linh đáp đền công ơn cao
quý của ông bà đã khổ
công nuôi dạy. Thùy Linh nhớ
rõ, cứ mỗi sáng Thùy Linh thức dậy sớm
nhất, rón rén nấu giúp bà
ấm nước để pha trà, nhưng bà lại thức giấc ngay
khi bếp lửa chỉ mới lóe lên những đốm nhỏ yếu ớt.
Thùy Linh thất vọng và cảm thấy thương
bà quá. Bù lại, những lúc
như vậy bà hay ôm Thùy Linh
vào lòng, rồi bà kể cho
Thùy Linh nghe rất nhiều chuyệïn Kinh
Thánh, chuyện tích xưa mà
bà đã đọc qua. Và trở thành
thói quen lúc nào không hay,
khi ngoài trời còn là một
không gian tờ mờ, thì bên bếp lửa hồng
rực sáng. Có hai bóng một
già, một trẻ in tô đậm trên
vách đằm thắm với những câu chuyện, bây
giờ lại trở thành những kỷ niệm khó
quên...
Cuộc sống Thùy Linh lặng lẽ trôi đi và
niềm vui ở lại. Thấm thoát Thùy Linh cũng sắp tốt
nghiệp Trung học. Vào tuổi dậy thì, người con
gái cảm thấy tình yêu của gia
đình, của bà không còn đủ
nữa và dấy lên từ đáy lòng
là sự nhen nhúm những tình cảm mới
hãy còn mơ hồ. Tâm trạng nầy được thi
sĩ Huy Thông diễn tả: