Giêrusalem,
4000 Năm Lịch Sử - Lạc Hồ
Đuốc Thiêng
101,
tháng 07 & 09 năm 2009
Tác-giả:
Roger CARATINI.
Sách:
Jesus,de Bethléem à Golgotha, ấn-bản 2003,
nhà xuất-bản L'Archipel, Paris.
Trích-dịch:
Mai-Đào.
Nhật ký của Marcellus
Mới có khoảng 4 tháng từ khi Marcellus trở lại
Jerusalem, mà đã có bao
nhiêu sự cố quan trọng xẩy ra, làm cho Marcellus
quên cả Rô ma, quên cả căn
phòng êm ái lịch sự của mình
trong lâu đài hoàng đế. Nào
là những người Do thái chẳng biết khôn
hay dại, chỉ vì cớ một thần tượng vô
tích sự, tỉ như con Đại bàng bằng vàng
mà đi giết người khác hoặc bị người
khác giết. Nào là những người Do
thái cứ khăng khăng rằng Đức Chúa Trời
là Chúa duy nhứt của họ, Ngài ở khắp
mọi nơi. Nào là những âm mưu hất cẳng
nhau nơi Đền thờ, ly kỳ không kém những
âm mưu ở triều đình Rô ma. Marcellus bắt
đầu yêu mến cái dân tộc không
biết gì về tranh giành bầu cử, về mua chuộc
chính trị, không sợ nghèo,
không sợ chết mà chỉ sợ không
tuân theo đúng kinh Torah; đây
là từ bác chủ ngân hàng quỷ
quái tinh ma đến anh nghèo mạt rệp từ chối
không lấy đồng tiền vàng, nếu trên đồng
tiền thấy có hình người; kia là anh ăn
xin đói đã hai ngày mà vẫn
từ chối thức ăn, nếu là đồ không tinh
sạch!
Marcellus thấy muốn nghiên cứu thêm về văn
hoá Đông phương, bèn ở låi
Jerusalem 8 năm nữa, cho đến khi hoàng đế Auguste chết, năm
767 Rôma. Suốt 8 năm, y du hành qua xứ Syrie, xứ
Phénicie, cả đến xứ Perse, nơi đây y viếng thăm di
tích của thành phố Persepolis, xưa kia bị đốt
cháy bởi tay một vị thần trẻ mắt xanh tóc
vàng cuả dân Macédoine. Sau mỗi cuộc
viễn du, y trở về Jerusalem, quan sát tình
hình, thấy cũng chẳng có bao nhiêu thay
đổi, có thay đổi chăng là tên quan tổng
trấn, và tên thầy tế lễ cả. Các
thành viên zélotes đã
rút cả lên vùng núi xứ
Ga-li-lê, đất nước thanh bình, các tổng
trấn thi nhau truất phế thay đổi thầy tế lễ cả, chính
mình cũng bị truất phế thay đổi bởi tay toàn
quyền Syrie là Quirinius, chỉ có vị
này không nhúc nhích. Mời
quý độc giả theo dõi tình
hình xứ Do thái qua vài trang nhật
ký của Marcellus.
Năm 760 Rô ma.
Sau những sự cố tai hại cuối năm ngoái, thanh
bình đã trở lại trên Jerusalem
và toàn thể xứ Judée. Từ Damas,
toàn quyền Quirinius đã cố vấn cho tổng trấn
Coponius, chia tỉnh Judée thành nhiều quận, mỗi
quận gồm một thành phố và vùng ngoại
ô, theo tiếng grec đang thịnh hành ở đây
quận kêu là toparchie.
Mới đây Quirinius yêu cầu tổng trấn truất phế
Joazar, thầy tế lễ cả, vì cho là anh
này có phần nào trách nhiệm
về những biến cố năm ngoái. Vụ truất phế này
xác nhận năm ngoái có âm mưu
thành lập chính quyền tôn
giáo ở Judée. Thầy tế lễ mới là Annas,
anh này là phụ tá tế lễ cả
đã 2 năm nay, hồi đó chính anh
này đã chỉ bảo tôi về những
giáo phái.
Trong giới thần học hiện nay có ba danh từ grec được ưa
chuộng, ghi lại đây mà chẳng hiểu nguyên
do: nazer, nghiã là "nhánh",
là "hậu duệ"; nosri, nghĩa là "kẻ canh
gác", "kẻ quan sát", nazir,
nghiã là "thánh", "được
dành riêng".
Năm 762 lịch Rô ma.
Chuyện kế tự vua Hérode vẫn chưa hết gây ra những
rối rắm, những tội ác, những bạo động cùng một
kiểu cũ. Tôi vừa mới dẹp xong một hồ sơ kỳ quặc,
hoàng đế gởi cho tôi điều tra, chuyện
này xẩy ra ít lâu sau khi vua
Hérode chết, tức là đến nay đã... 12
năm. Chuyện một anh Do thái, tên là
Alexandre, quê quán ở Sidon, đến trình
diện hoàng đế Auguste 2 năm sau khi Hérode chết,
tự xưng là con trai đầu của Hérode. Với cương vị
này, anh ta xin được hưởng gia tài cha
mình, tức là cả xứ Judée lớn,
mà tổng trấn Coponius đang cai trị cách chật vật.
Ai cũng biết la Hérode có trước sau 10
bà vợ, có vô số con, 3 đứa con trai đầu
bị thắt cổ chết (chắc là do lịnh vua cha), trong số
này có Alexandre và Aristobule, con
của bà Marianne l’Asmonéenne, vợ thứ
nhì. Anh chàng Do thái đến
Rô ma kêu ca này, tự xưng
mình là Alexandre, kể rằng hồi đó may
mắn thoát chết khi bị treo cổ. Hoàng đế biết ngay
đây là giả mạo, phạt y phải đi làm
nô lệ chèo thuyền, sau đó yêu
cầu tôi điều tra có bao nhiêu người
đã bị lừa gạt bởi anh chàng Alexandre giả
này: có khoảng 100 người!
Cũng năm này, tổng trấn Coponius bị mất chức, triệu hồi về
Rô ma. Triệu hồi là phải, y không đủ khả
năng, và chỉ lo tắm nắng để chữa bịnh mòn xương.
Tuy nhiên, y là người hiền lành,
không làm hại ai. Kẻ thay thế y, là
Marcus Ambivius, mà tôi không hề biết.
Người Do thái làm lễ Pâque
Năm 762, tôi có niềm vui, là
vào dịp lễ Pâque, tôi có tin
về con trai của Joseph và Marie. Năm này
nó 12 tuổi, chuyện nó thật lạ lùng như
sau. Joseph và Marie, cũng như cả hàng
ngàn hàng vạn người Do thái,
vào dịp này là ngày lễ lớn
nhứt trong năm, họ "lên" Jerusalem để làm lễ. Họ
làm lễ thế nào? Chiều ngày 14
tháng Nissan, Joseph vô sân Đền thờ,
chọn và mua con chiên để dâng
làm của lễ. Theo luật Torah, chiên này
phải là "không tì không
vít". Joseph đem chiên đến sân
các thầy tế lễ, trình chiên với
các thầy. Một tiếng kèn nổi lên, rồi
một thầy cắt cổ chiên, hứng máu chiên
vào trong tô, đem máu rảy trước
bàn thờ, máu sẽ theo cống rãnh chảy
tới khe Cédron (Xết rôn). Sau đó, đốt
ruột và mỡ của chiên, phần còn lại
thì Joseph đem đi để sẽ quay (chiên) nơi lều
đã dựng sẵn phía bên ngoài
tường thành Jerusalem. Thịt chiên quay
này dành cho bữa ăn seder của lễ Pâque,
Joseph tối hôm đó sẽ ăn cùng với những
gia đình khác từ Ga-li-lê đến. Suốt cả
ngày hôm đó, họ đã đặt
lò đặt bếp để quay, đặt cho khéo để rồi quay
chiên mà không gẫy một cái
xương nào, theo như luật Thorah. Các phụ nữ tinh
sạch (nghĩa là những phụ nữ nào không
có kinh) lo đặt bàn lưu động, sắp ra
bánh không men, rau đắng, các thứ rau
thơm, rồi đến giờ ăn bữa lễ, kêu là cena (bữa ăn
tối, theo tiếng latin), chiên quay rồi đem chặt ra, mỗi người
dự lễ nhúng môi vào ly nước muối, để
nhớ lại những giọt nước mắt của tổ phụ họ hồi xa xưa khi ra khỏi xứ
Egypte, sau đó họ bắt đầu ăn seder, tràn ngập
cười vui. Bắt đầu là nhúng bánh
không men vào chén nước chấm mầu đỏ.
Tiếp theo, uống ly thứ nhứt rượu vang đỏ, đọc một lời chúc
phước. Tiếp theo là hai ly rượu nữa, chuyền tay nhau. Đến ly
rượu thứ tư, tất cả hát bài Hallel, là
bài thi thiên tạ ơn lễ Pâque:
"Lạy Đức Chúa Trời của chúng tôi ở
trên trời. Ngài làm hết tất cả những
điều Ngài muốn. Những thần tượng (của các
dân tộc khác) bằng vàng và
bạc, chúng là công việc của tay người,
chúng có miệng mà chẳng
nói, chúng có mắt mà
không thấy, chúng có mũi mà
không ngửi, chúng có tay mà
không rờ, chúng có chân
mà không bước, cổ họng chúng
không sanh ra tiếng nào… Đức
Giê hô va là sức mạnh của tôi,
là đầu đề mọi lời tôi ca tụng, chính
Ngài đã cứu tôi. Từ lều những người
công bình, vang lên tiếng reo về cứu rỗi
và chiến thắng. Tay Đức Giê hô va bầy tỏ
quyền năng của Ngài" (xin xem chú
thích).
Suốt đêm họ ăn lễ, rồi sáng hôm sau họ
bắt đầu các lễ nghi chính, kéo
dài suốt 7 ngày. Khi lễ chấm dứt, họ trở về
nhà, ta thấy trên các nẻo đường
vùng Palestine, người Do thái kết
thành từng nhóm nhỏ trở về quê ; Joseph
và Marie cũng thế, họ trở về Ga-li-lê. Tuy
nhiên, theo người ta kể, Jesus ở nán lại
Jerusalem, nhưng cha mẹ không biết, tưởng rằng con
mình cùng đi với những đứa trẻ khác
trong nhóm. Mãi một hay hai ngày sau,
họ không thấy Jesus, bèn trở lại kiếm ở Jerusalem.
Jesus ở Đền thờ
Sau ba ngày tìm kiếm, họ ngạc nhiên
thấy Jesus trong Đền thờ, ngồi giữa các thầy dạy Luật,
nói chuyện với họ, lắng tai nghe họ, và mạnh mẽ
chất vấn họ. Theo như kể lại, mọi người chứng kiến cuộc hội
đàm bất ngờ này đều lấy làm lạ về đứa
trẻ thông minh này, đã sửa
các thầy tế lễ và thầy dạy Luật, giảng giải những
ẩn dụ của các tiên tri và Kinh
Thánh, giải thích Luật pháp về những
chỗ không rõ nghĩa và có vẻ
trái ngược nhau. Khi nghe người ta kể lại như thế,
tôi lên ngựa để đến coi tận mắt, vì
trong thành phố này không thiếu những
chuyện ba hoa và bịa đặt. Khi tôi đến Đền thờ,
thì cuộc hội đàm - nếu có, chắc
gì đã có - đã chấm dứt, chỉ
còn hai ba thầy tế lễ và một thơ ký
nói chuyện với Joseph, và tôi nghe
Marie rầy con mình:
-Jesus, sao con làm cho cha mẹ lo lắng quá chừng?
Cha và mẹ kiếm con đã ba ngày rồi!
Jesus bình tĩnh trả lời: Cha me kiếm tôi
làm chi? Cha mẹ há chẳng biết rằng tôi
phải lo việc Cha tôi sao?
Cả Marie lẫn Joseph chẳng ai hiểu Jesus nói thế
là có nghĩa gi, cả tôi nữa cũng chẳng
hiểu. Nhưng có mấy thầy thông giáo
và mấy thầy Pha-ri-si, chắc là đã dự
cuộc hội đàm với các thầy tế lễ, đến gần Marie
mà nói:
-Có phải bà là mẹ đứa trẻ
này không? Bà đã sanh
nó ra, thật có phước thay! Chưa từng khi
nào chúng tôi được nghe những lời
khôn ngoan như thế ra từ miệng người.
Marie bỡ ngỡ, lụng bụng lời cám ơn,rồi cùng với
Joseph đến chào tôi. Bà kể rằng con
trai mình lớn lên cả về thể xác, cả vể
khôn ngoan; rằng trong làng quê ở
Ga-li-lê, người ta đặt biệt danh cho Jesus là
Nazir, một tiếng latin nghĩa là quá
khôn. Và Marie vừa cười vừa kể giai-thoại về
tên này: biệt danh này lan ra khắp
chốn, mọi làng ở Ga-li-lê đều biết, đến nỗi những
du khách ngoại quốc, từ Samarie, từ Syrie, họ đến thăm
vùng núi xứ này, họ tưởng rằng
xóm nghèo chúng tôi ở
có tên là Nazareth hay là
Nazara, khi nghe nói "Jesus người Nazir". Tôi vẫn
cố gắng giải thích rằng tôi sanh nó ở
Bethlehem, rằng ở khắp xứ Ga-li-lê chẳng có
làng nào tên là Nazareth,
nhưng mà họ chẳng tin! (phụ dẫn của dịch giả: như thể cụ
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm của chúng
ta. Khi nghe nói về cậu Khiêm người thần đồng, du
khách nghĩ rằng cậu Khiêm quê ở
làng Thần đồng!)
Năm 763 lịch Rô ma.
Hoà bình có vẻ đã thực sự
trở lại trên vùng Palestine, do tay
toàn quyền Quirinius. Viên quan này
đã chu toàn chuyện kế tự vua Hérode.
Đã kết thúc cuộc kiểm tra dân số mở ra
13 năm trước, khi Marie sanh con ở Bethlehem. Đã
bán và sung công tài sản của
Archélaus, anh này nay đang bị lưu đầy ở Vienne,
gần Lyon. Đang kiểm soát chặt chẽ Philippe và
Antipas, 2 người con vua Hérode được làm tiểu
vương trong vùng. Về nguyên tắc, họ được phong
là "tiểu vương" (ethnarque), nhưng Antipas tự xưng
là "đại-tiểu-vương" (tétraque), chắc
là vì muốn làm oai. Họ chẳng phải lo
chuyện cai trị, vì đã có quan tổng
trấn Rô ma lo giùm. Các vua
chúa khi không phải lo cai trị, lo chiến-tranh,
thì khoái xây cất. Tôi vừa
mới về từ nguồn sông Jourdain, nơi mà 13 năm trước
đây tôi ngủ ngoài trời với Hiram. Nơi
đây tôi thăm thành phố mà
Philippe mới xây xong, đặt tên là
Césarée (Xê-xa-rê) để vinh
danh hoàng đế César, thật là lộng lẫy
xinh đẹp. Nghe nói y có chương trình
khuếch trương thành phố Bethsaide (Bết-sai-đa) ở ven hồ
Ga-li-lê, sẽ cải tên là Juliade, để vinh
danh cô Julia, con gái hoàng đế Auguste.
Năm 765 lịch Rô ma
Hoàng đế Auguste không có con trai,
phải nuôi con nuôi, nhưng người cuối
cùng là Caïus César
đã chết cách đây 8 năm.
Hoàng hậu Livie bèn tìm
cách đẩy lên điạ vị tột cùng người con
riêng của mình, tên là
Tibère, năm nay 54 tuổi. Tibère rất xứng
đáng, sáng chói trong sự nghiệp
chính-trị và quân-sự. Năm 29 tuổi,
đã là tổng kiểm tra ngân
sách của quân đội; năm 37 tuổi, đã cầm
quân chiến thắng quân Germains; năm 39 tuổi
đã làm lãnh-sự; năm 45 tuổi,
là tổng chỉ huy toàn thể quân đội
Rô ma; và hiện nay là thành
viên ban quản trị toàn quốc (tribun), tức
là nhân vật số 2 trong vương quốc. Tất cả mọi
người đều quả quyết rằng kẻ kế vị hoàng đế Auguste phải
là Tibère.
Ở Judée, quan tổng trấn Ambivius bị kêu về, Annius
Rufus đến thay. Cho tới chừng nào, ai biết, vì
Quirinius có thói quen cách chức tổng
trấn mà chẳng công bố lý do.
Năm 767 lịch Rô ma
Hoàng đế Auguste chết rồi, hôm 19 tháng
8. Kế vị là Tibère.
Antipas "đại tiểu vương" (như y vẫn tự xưng) ra sức lấy lòng
hoàng đế Tibère. Y xây một
thành phố lộng lẫy bên ven hồ Ga-li-lê,
y đặt tên là Tibériade
(Ti-bê-ri-át). Y khởi công xây
một thành phố khác, sẽ đặt tên
là Livias, để vinh danh bà Livie, mẹ của
hoàng đế Tibère. Và hồ
Ga-li-lê, thắng cảnh đặc biệt này từ nay
có tên là hồ "Tibériade".
Thời gian trôi sao quá mau... Tôi tưởng
lịch sử đã ngừng ở Jerusalem từ khi tôi trở lại
sống ở Palestine. Tuy nhiên, có tin mới : sang
năm, sẽ đổi quan tổng trấn, người này tên
là Valerius Gratus. Phải chăng năm nay 767 lịch Rô
ma, sẽ bắt đầu một thời đại mới cho xứ Judée?
Lời kết
Marcellus đâu nghĩ rằng câu kết luận của
mình quá đúng. Chẳng những
đúng cho xứ Judée, mà đúng
cho cả trái đất, cho tất cả các dân tộc
trên trái đất, nhưng điều này quan
khâm sai chẳng tiên đoán được.
Hết chương 8
-----------------------------------------------
Chú thích: Trên
đây
là trích đoạn của Thi thiên 115
và 117. Marcellus chỉ viết trích đoạn,
đoán chừng y không muốn hoàng đế phải
đọc nhiều. Ðộc giả của Ðuốc Thiêng
không sợ phải đọc nhiều mà còn
thích ca tụng Ðức Giê-hô-va, vậy
chúng tôi chép dưới đây
toàn bộ Thi-thiên 115 và 117.
Thi-thiên 115:
Kính lạy Ðức Giê-hô-va, nhơn
vì sự nhơn từ Ngài và sự chơn thật
Ngài, sự vinh hiển chớ về chúng tôi;
chớ về chúng tôi, bèn là
đáng về danh Ngài.
Vì sao các ngoại bang nói rằng:
Ðức Chúa Trời chúng nó ở
đâu? Ðức Chúa Trời chúng
tôi ở trên các từng trời;
phàm điều gì vừa ý Ngài,
thì Ngài đã làm.
Hình tuợng của chúng nó bằng bạc
và vàng, là công việc tay
người làm ra. Hình tượng có miệng,
mà không nói; có mắt,
mà không thấy; có tai, mà
chẳng nghe; có lỗ mũi, mà không ngửi;
có tay, nhưng không rờ rẫm; có chơn,
nào biết bước đi; cuống họng nó chẳng ra tiếng
nào. Phàm kẻ nào làm
hình tượng, và nhờ cậy nó, đều giống
như nó.
Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Ðức
Giê-hô-va, Ngài là sự tiếp
trợ và cái khiên của các
ngươi. Hỡi các người kính sợ Ðức
Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Ðức
Giê-hô-va, Ngài là sự tiếp
trợ và cái khiên của các
ngươi.
Ðức Giê-hô-va đã nhớ đến
chúng tôi, Ngài sẽ ban phước, ban phước
cho nhà Y-sơ-ra-ên, cũng sẽ ban phước cho
nhà A rôn. Ngài sẽ ban phước cho những
kẻ kính sợ Ðức Giê-hô-va, hoặc
nhỏ hay lớn đều được cả.
Nguyện Ðức Giê-hô-va gia thêm
phước Ngài cho các ngươi và cho con
cháu các ngươi.
Ðức Giê-hô-va, là Ðấng
dựng nên trời đất, đã ban phước Ngài
cho các ngươi.
Các từng trời thuộc về Ðức
Giê-hô-va; nhưng Ngài đã ban
đất cho con cái loài người.
Kẻ chết hoặc kẻ xuống cõi nín lặng chẳng ngợi
khen Ðức Giê-hô-va. Nhưng chúng
tôi sẽ ngợi khen Ðức Giê-hô-va,
từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!
Thi-thiên 117:
Hỡi các nước, hãy ngợi khen Ðức
Giê-hô-va; hỡi các dân,
khá ca tụng Ngài. Vì sự nhơn từ
Ngài rất lớn cho chúng ta; sự chơn thật
Ðức Giê-hô-va còn đến đời đời.
Ha-lê-lu-gia!
Đuốc
Thiêng 101
01
Càng
nhiều càng tốt - ĐTPÂ
02
Thơ:
Kỷ niệm Đại Hội Tin Lành Âu Châu-
Đức Huy
03
Thơ:
Đại Hội Tin Lành Âu Châu Hòa
Lan - Đức Huy
04
Kiếp
phù sinh - TC Hừng Đông
05
Phục vụ
Chúa - Mục sư Nguyễn Văn Bình
06
Cao đẹp
tình Cha - Nguyễn Đình Bùi
Thị
07
Tình
mẫu tử - Bà Lê Văn Bắc
08
Thơ: Phụng
sự
Chúa
- Đức Huy
09
Đời chẳng
ai ngờ - Vinh Bằng
10
Tiểu sử
Thánh Ca - Fanyia
11
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
12 Xứ Do Thái khi Chúa Jêsus khởi sự
công tác
- Mai Đào
13
Đức
Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi:
Tôi sẽ chẵng thiếu thốn gì - MSNC
Lê Văn Thể
14
Cục gạch
- Thanh Nguyên
15
Phát
triễn và bảo tồn thực vật - Dr Trương
Hoàng Lâm
16
Tin Tức
- Vinh Bằng