Phát
Triễn Và Bảo Tồn Thực Vật
- Dr. Trương Hoàng Lâm
Đuốc Thiêng
101,
tháng 07 & 09 năm 2009
1/ Đặc tính của thực
vật
Thực vật và động vật có một sự khác
biệt hoàn toàn. Thú là
thú và cây là cây
mặc dầu tế bào động vật và tế bào thực
vật có nhiều sự giống nhau thí dụ cả hai đều
có màng tế bào, nhân tế
bào và chất tế bào. Nhưng tế
bào thực vật có thành tế
bào rất vững chắc cấu tạo bằng xenluloz, đó
là cái khung ngoài, quy định
hình dạng tế bào; thực vật không
có bộ xương làm điểm tựa cho nên mỗi tế
bào phải tự có một tính chất vững
vàng, ngoài ra bên trong tế
bào có một khoảng trống, đó
là không bào (Vakuole; vacuole)
có chứa chất dịch (Zellschaft) tạo một áp lực
vào khung biến tế bào giống như 1 trái
banh trương ra. Tế bào thực vật có lạp thể
(Chloroplast) chứa diệp lục (Chlorophyll) để sản xuất ra O2 qua hiện
tượng quang hợp.
Theo kết quả nghiên cứu người ta biết rằng cây sống
tự dưỡng (autotroph) bằng cách nhận các chất
vô cơ, CO2, nước v.v... để tạo thành chất
có ích cho mình như carbo-hydrat để
sản xuất đường, bột, xenluloz; còn thú vật sống
dị dưỡng (heterotroph) nhận mở, nước, chất hữu cơ, chất đạm,
carbohydrat từ bên ngoài và tạo ra chất
nuôi tế bào.
Cây gắn liền với một nơi nhất định trong lúc con
thú có thể luôn luôn di động.
Phản ứng của cây đối với môi trường xung quanh
có vẻ tiêu cực nhưng con thú với tất cả
giác quan của nó rất nhạy cảm với thay đổi
môi trường sống. Sự phân biệt nầy giữa thực vật
và động vật có rất nhiều ngoại lệ: thí
dụ các loài thú như bọt biển (Schwamm;
éponge), thủy mẫu (Polyp; polypen), nhuyển thể lại sống cố
định ở một nơi; các loài cây như
bào tử động (Zoosporen), giao tử (Gameten) lại sống di động
như thú. Đặc biệt là tảo lông roi
(Euglena) sanh sống ở nước ngọt, hình thoi, hình
điếu xi gà hay hình oval, một sợi tiên
mao dài giống như roi mọc lên từ vách
cổ họng hình lọ nằm ở phần cuối cơ thể. Khi có
ánh sáng Euglena sử dụng diệp lục tố của
mình để sản xuất carbohydrat. Trong bóng tối
nó sống dị dưỡng nhận thức ăn từ bên
ngoài; các nhà khoa học
không biết tảo lông roi là
thú hay cây.
Theo tính toán mỗi năm cây xanh qua
quá trình quang hợp đã chuyển
hoá được 170 tỷ tấn cacbon có trong CO2 của
không khí và 68 tỷ tấn nước tạo
thành 115 tỷ tấn chất hữu cơ (tính theo số lượng
khô). Đó là nguồn thức ăn cho tất cả
các loài động vật và con người.
Cũng nhờ quá trình quang hợp mà
cây xanh đã tạo ra mỗi năm 123 tỷ tấn
khí O2 mà các loài sinh vật
tiêu dùng qua hô hấp. Celuloz của thực
vật là chất xơ trong con người thúc đẩy bao tử va
ruột vận động cho tiêu hoá.
Thực vật cũng giữ vai trò then chốt với nhân loại
như là nguồn nhiên liệu (than đá, dầu
hỏa, khí đốt), nguồn nhiên liệu cho kỹ nghệ (gỗ
xây dựng, gỗ củi, giấy, hoá chất, thực phẩm, dược
phẩm v.v...).
Nếu không có cây xanh thì
Trái Đất chỉ là bãi sa mạc hoặc một
bãi núi lạnh lẽo, hiu quạnh, nơi đó
không một loài động vật nào
có thể sinh sống được. Vậy thực vật phải được tồn tại
mãi mãi để các sinh vật có
thể nhờ đó mà bền vững.
2/ Sinh sản hữu tính và sinh sản vô
tính
Hiện nay thực vật bao phủ và trang điểm
Trái Đất với một màu xanh đẹp đẽ. Các
cây cỏ phát triển rất dễ dàng qua 2
cách:
Trong sinh sản hữu tính một tế bào đực nhập với 1
tế bào cái để tạo thành một tế
bào thụ tinh. Phấn hoa ở bộ phận đực được truyền sang
vào noản (Samenanlage; ovule) của bông để từ
đó mầm được phát triển.
Bộ phận thụ tinh của cây có hột là
bông, bông có thể là đơn
phái chỉ có hoa đực còn hoa
cái ở một cây khác hoặc lưỡng
phái vừa có bộ phận đực và bộ phận
cái ở cùng. Thí dụ cây đơn
phái là cây khổ qua, dừa, bắp, thủy
tùng (Eibe, if), liểu (Weide, saule), cây lưỡng
phái đó là cây
thông (Kiefer; pin), cây bí
(Kürbis; courge), dưa leo (Gurke; concombre) v.v...
Sự thụ phấn là truyền phấn hoa vào nuốm (Narbe;
stigmate) hoa cái của các loài thực
vật hạt kín (Bedecktsamer; Angiosperme), sau đó
phấn qua vòi (Griffel; style) để vào bầu nhụy
(Fruchtknote; ovaire) và gặp tế bào trứng
(Eizelle; ovule) để thụ tinh, từ đó mầm được phát
triển lớn lần lần. Đối với các thực vật hạt trần
(Nacktsamer; gymnosperme) phấn vào thẳng bộ phận
không che kín của noản (Samenanlage; ovule). Thực
vật hạt trần gồm các loài thuộc họ thủy
tùng, họ bạch quả (Ginkgo), họ trắc bá
(Zypresse), họ cây lá kim.
Phấn có thể vào một cái hoa (sự tự thụ
phấn) hoặc vào các hoa cái của nhiều
cây cùng loài (sự thụ phấn
chéo), trung gian sự thụ phấn chéo có
thể là gió ở ngủ cốc, thông,
côn trùng ở cây ăn trái, cải
dầu (Raps, colza) hay nước ở rong biển (Seegras, varech), thực vật thủy
sinh (Wasserpflanzen, plantes aquatiques).
Có nhiều cách sinh sản vô
tính như:
Phân chia: một cây mẹ mọc dính chung với
4-6 cây con xung quanh. Sau khi tách ra người ta
có nhiều cây con mới, có thể trồng
riêng rẻ nhưng với khoảng cách 30 cm.
Mầm non (Ausläufer; rejeton): các cây con
đứng gần cây mẹ, xuất phát từ rễ-bò
ngay trên mặt đất, đầu mọc rễ, ở đó mọc mầm nhỏ
và ra lá; sau đó rễ tiếp tục
bò ngang, mọc rễ và mọc mầm, thí dụ
dâu đất (Erdbeere; fraise), xa trục thảo (Weißklee;
trèfle blanc), cây hạ khô (Gunsel;
bugle). Nhiều loại cây có rễ-bò dưới
mặt đất, chia ra nhiều rễ nhỏ khác, từ mỗi cuối rễ
có một mầm non mọc ra khỏi mặt đất thí dụ cỏ
gà (Quecke; chiendent), hoa diên vĩ (Schwertlilie;
iris), linh lan (Maiglöckchen; muguet), măng tây
(Spargel; asperge). Ở mỗi cuối rễ mọc ra một củ thí dụ khoai
tây; qua mầm non, các củ được cung cấp thức ăn cho
đến khi chúng đâm lá và rễ.
Lá chiết (Ableger): từ bờ rìa của lá
mẹ mọc nhiều chồi non; khi có lá và rễ
chúng rớt xuống và mọc vào đất.
Củ con: nhiều củ con mọc quanh củ mẹ thí dụ củ hoa tulip,
hoa thược dược (Dahlie; dahlia).
Ngoài sinh sản vô tính trong
thiên nhiên còn có sinh sản
vô tính nhân tạo tức là do
con người làm ra thí dụ phương pháp
ghép cành (Propfung; greffe): gốc ghép
là thân mẹ và cành
ghép là thân con, cả hai sống chung với
nhau nhưng rất tiếc thỉnh thoảng không thành
công. Người ta có 2 cách
ghép đôi khác giống:
Ghép đôi đường kính không
tương đồng (Propfung; greffe en fente): đây là
phương pháp làm trẻ các cây
ăn trái đã già để có được
nhanh mùa hái trái, nhanh hơn
là trồng một cây mới. Gốc ghép
thúc đẩy phát triển cành
ghép: người làm vườn cắt ngang cây mẹ,
chẻ một đường và lấy vỏ ở một đoạn ngắn sao đó ấn
cành ghép đã được cắt cho vừa với đoạn
cắt ở cây mẹ và bịt chổ ghép bằng lớp
vỏ của thân cây, cuối cùng thoa
vào một loại nhựa cây để trám vết
ghép chống khô và sự thâm
nhập của vi trùng gây bịnh.
Ghép đôi đường kính tương đồng
(Kopulieren; greffe à l´anglaise): người
làm vườn cắt xéo gốc ghép
và cành ghép, để hai loại
cây vào sao cho đúng với đường cắt, bịt
chỗ ghép bằng lớp vỏ của thân cây
và thoa nhựa cây vào vết trầy.
Sự phát triển của thân con, trổ bông sớm
hay muộn, trái nhiều hay ít, khả năng đối
kháng chống bệnh tất cả đều tùy thuộc
vào gốc mẹ. Bằng phương pháp ghép, một
cây táo có thể mang nhiều loại
táo khác nhau cũng như một cành hạnh
đào ghép vào 1 gốc hồng dại cho nhiều
bông rất đẹp, loài bông hồng
qúy trên một gốc hồng dại.
Một phương pháp khác của sinh sản vô
tính là phương pháp giâm
cành (Steckling; bouturage): nhiều cây cảnh trồng
trong nhà hoặc cây lớn như liểu, cây bụi
có thể giâm cành; người ta cắt một
nhánh nhỏ và giâm xuống đất ướt, từ
đó nhánh sinh rễ. Đối với cây phong lữ
(Geranium; geranium), cây vãn anh (Fuchsie;
fuchsia), cúc đại đóa ( Chrysantheme;
chrysanthème) đây là vấn đề rất dễ.
Phương pháp ghim cành (Senker): cắt từ
cây cẩm chướng (Nelke; oeillet) một cành nhỏ gần
mặt đất, nhưng cắt phân nửa, uống cong và
chôn xuống đất bằng một khúc gỗ hình
nĩa, sau thời gian ngắn cành ghim mọc rễ, lúc
đó người ta có thể cắt khúc
đó và đem trồng nơi khác.
Sự hiểu biết về sinh sản vô tính đã
được áp dụng trong canh nông, lâm nghiệp
và làm vườn với mục đích
phát triển thực vật để có thể sản xuất trong thời
gian ngắn một số cây con, các cây nầy
có cùng chung tánh chất như
cây mẹ, rất cần thiết trong kinh tế (khẩu vị, độ lớn,
hình thể và cách thức nấu của củ khoai
tây), tính chất nầy có thể giữ
nguyên trong các thế hệ sau; phương
pháp sản xuất vô tính rất đơn giản
nhưng chỉ tạo ra một số nhỏ cây con; sau một thời gian
lâu tính chất di truyền trở nên cằn cổi,
vi khuẩn ở cây mẹ có thể truyền sang cây
con.
Ngược lại sinh sản hữu tính có thể tạo ra một số
lớn cây con, phương pháp rất đơn giản, đa dạng
trong di truyền và lai giống chọn lọc cũng dễ
dàng nhưng thời gian phát triển lâu
dài, nhiều lúc kết quả không như mong
muốn. Điều quan trọng ở sinh sản hữu tính là sự
thụ phấn và kết trái. Hột trong trái
có thể tích trử lâu dài để
tạo ra cây con. Tùy theo phương pháp
và nơi tồn trử mà hột giống có khả
năng ra cây con sau một thời gian cất giữ lâu
dài. Theo tài liệu, hột của cây lạt
(Rosskastanie; marron) có thể sống lâu 15
tháng, hột cây lật (Esskastanie;
châtaigne) sống lâu 9 tháng, hột chanh:
16 tháng, hột dừa: 16 tháng, hột cà
phê: 22 tháng, hột sồi (Eiche; chêne): 3
năm, hột cải: 19 năm, hột sà lát: 20 năm, củ
hành: 22 năm, hột cà rốt: 31 năm, hột đậu
Hoà lan (Erbse; pois): 31 năm, hột luá mạch
(Gerste; orge): 32 năm, luá mạch đen (Roggen; seigle): 32
năm, hột lúa mì (Weizen; blé): 32 năm,
bắp: 32 năm, thuốc lá: 39 năm, khoai tây : 200 năm
v.v... Cây có hột xuất hiện trên
Trái Đất đã hơn 4.000 năm từ lúc Đức
Chúa Trời tạo dựng thế gian (Sáng thế
Ký 1:12).
3/ Bảo tồn các loài thực vật
Trước khi đề cập đến thực vật chúng ta nên
nhìn kỷ hiện trạng của một vài loài
động vật như thế nào:
Bò rừng Châu Âu (Đức: Wisent;
Pháp: Bison) đã bị giết rất nhiều vì
săn bắn, tàn phá rừng và sự
phát triển chăn nuôi các
loài bò nhà; vào cuối thời
kỳ Trung cổ số bò rừng Châu Âu biến mất
đến lúc phải báo động, tổng số bò
vào thế kỷ 19 trong tình trạng nguy ngập.
Vào năm 1923 không một con nào sống
trong thiên nhiên. Trong 56 con ở nhiều vườn
thú khác nhau người ta chọn các con
thích hợp cho nuôi giống, năm 1952 nhiều con đầu
tiên đã được thả ra trong thiên
nhiên; chỉ có bò rừng đồng bằng Bison
bonasus là được cứu; quê hương mới của
chúng là khu rừng Bialowieza (giữa Ba lan
và Nga Trắng): ngày hôm nay
là 800 con. Tại Kaukasus và Baltikum
bò rừng cũng được du nhập, nhiều nhóm được
nuôi dưỡng tại các công viên
thú và vườn thú. Tổng số
ngày hôm nay khoảng 3.000 con, tình
trạng tổng quát được xem là còn bị đe
dọa nặng.
Chim thằng chài (Eisvogel; martin-pêcheur) sống
khắp Châu Âu, Cận Đông, Đông
Nam Á. Vào mùa đông
chúng di cư đến Bắc Phi Châu, bán đảo
Á Rập, Nam Dương. Tại Châu Âu
chúng bị đe dọa vì sự điều hoà
và làm thẳng bờ sông, ao hồ,
làm khô các vùng đầm lầy,
nước bị ô nhiễm, thức ăn trở nên hiếm.
Các bờ sông được thiết kế kỷ thuật lại
nên không có bờ dốc thẳng đứng đề
chúng làm hang đào ổ, các
du khách đến quấy rầy nơi sinh sống của chúng.
Nhiều tổ chức bảo vệ đã điều hoà trở lại
các sông ngòi, giữ gìn
các nơi khai thác đá sỏi và
làm ổ nhân tạo cho chúng, nhiều chim
thằng chài đã quay trở lại vùng sinh
sống cũ và nuôi tạo nhiều chim con.
Ó cá (Fischadler; balbuzard pêcheur)
hiện nay tại Đức trở nên hiếm vì cảnh quang bị
tàn phá, đường xá được xây
dựng nhiều hơn nên môi trường sống bị
phân chia nhỏ ra và du khách quấy rầy.
Biện pháp: cảnh quang phải giữ rộng lớn, dòng
nước không bị ô nhiểm và
tránh phá rối gần nơi chúng ở.
Chim bách thanh lưng đỏ (Neuntöter;
pie-grièche écorcheur) không
tìm đựơc môi trường sống vì
vùng canh nông đã được qui
phân điền địa (Flurbereinigung; remenbrement agricole) (xem
Đuốc Thiêng số 82, 4/2006) và công
viên cùng vườn tược được dọn dẹp sạch sẽ, vả lại
chim bách thanh tự nó cũng trở nên
hiếm. Nó chỉ có thể tiếp tục sống nếu
có sự bảo vệ các lùm bụi và
hàng rào chắn gió cùng
các bụi cây có gai ngoài
đồng. Chim bách thanh thường treo các
thú bị giết như chuột, sâu bọ vào
các ngọn gai để dự trữ thức ăn.
Ếch xanh (Laubfrosch; grenouille verte) khó tồn tại trong
môi trường sống hiện nay vì nước ao, hồ
đã bị hủy diệt và ô nhiểm nên
trứng không nở được. Vậy các ao, hồ, hầm chứa nước
phải được chăm sóc và gìn giữ,
các ao, hồ trong vườn cần được sáng lập.
Cú diều (Uhu; Grand Duc d´Europe) trở
nên hiếm vì thiếu thức ăn do cảnh quang bị chia xẻ
ra nhiều mảnh nhỏ, đường xá mở rộng, canh nông
phát triển; nơi sanh đẻ cũng khó tìm
(nóc nhà củ, vựa rơm, tường xụp đổ,
nóc nhà thờ). Cánh của
chúng khi bay xoè ra rất rộng nên
thường hay đụng dây điện; cánh quạt
phát điện cũng gây trở ngại. Chúng
thường hay bị xe lửa cán vì ăn các
thú bị chết ở đường rầy và cũng trở
thành nạn nhân như các thú
ấy. Các nhà bảo vệ chim đã
nuôi chim cú diều và thả ra trong
thiên nhiên nhưng cú diều phải chấp nhận
nơi sống mới của mình.
Trên đây là một vài
thí dụ trong nhiều trường hợp của các
loài thú bị đe doạ. Các
loài thực vật cũng gặp nguy hiểm nhưng bằng cách
khác.
a/ Bị đe dọa do sưu tầm hoặc lặt bẻ: nhiều loại hoa chẳng những đẹp
vì màu sắc mà còn đẹp
vì hình thể thí dụ hoa lan
hài (Frauenschuh; sabot de Venus), hoa tulip dại (Wilde
Tulpe; tulipe sauvage), hoa anh thảo (Alpenveilchen; cyclamen), ở
đây xin chú ý là củ rễ vừa
có chất thuốc làm xổ vừa có chất độc
làm động kinh có thể gây chết; hoa bối
mẫu (Schachblume), hoa hình cầu (Trollblume), cẩm chướng ngủ
tuần (Pfingstnelke), hoa anh thảo vàng
(Schlüsselblume; primevère), hoa mẫu tử (Edelweiss;
edelweiss); hoa mẫu tử được gây giống bán trong
tiệm nhưng du khách đi chơi vùng núi
Alpen vẫn hái nhổ đem về trồng làm kỷ niệm; hoa
hổ nhỉ thảo (Steinbrech; saxifrage) mọc giữa những tản đá
vùng núi Alpen cũng có số phận như hoa
mẫu tử.
Đối với hành động sưu tầm, lặt bẻ chánh quyền địa
phương cần phải bảo vệ chặc chẽ vùng có hoa mọc,
hình phạt nặng cho những ai phạm tội.
b/ Bị đe dọa do thay đổi môi trường sống: nông
dân dùng phân bón để tăng
phát triển cỏ cho bò ăn nhưng phân
bón tiêu diệt cây bạch đầu ông
(Küchenschelle; pulsatille). Vậy nông dân
không nên dùng phân
bón và thỉnh thoảng gặt cỏ để cỏ có cơ
hội mọc mạnh thêm trở lại.
Nhiều nơi người ta làm khô đầm lầy để lấy đất hoặc
thiết kế bờ hồ, ao hay sông làm cho hoa
diên vĩ (Schwertlilie; iris), vị kim đầm lầy
(Sumpfdotterblume) trở nên hiếm. Tốt nhất là
nên giữ nguyên trạng các đầm lầy, che
chở các ao, hồ hoặc gầy dựng thêm nơi
có nước, thiên nhiên hóa trở
lại các bờ sông, suối. Để tăng năng xuất cỏ
nông dân làm khô đồng cỏ ướt
hoặc đào mương tháo nước hoa hình cầu
(Trollblume) cũng biến mất. Nông dân là
người thù của hoa kỵ phu lam (Herbstzeitlose; colcique)
vì người ta dùng thuốc hóa học để trừ
nó vì hoa nầy rất độc đối với gia súc.
Muốn che chở hoa người ta không nên cho
đàn súc đến gần cây nầy và
chấp nhận nó.
Đây là một vài thí dụ cho
thấy các loài hoa bị đe dọa vì con
người. Số lượng các loài thực vật lẫn
thú vật đang bị giảm sút hoặc có nguy
cơ tuyệt chủng cần được bảo tồn, phục hồi và phát
triển. Liên hiệp Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên
Thiên nhiên IUCN (International Union for
Conservation of Nature and Natural Resources) công bố
Sách Đỏ (Red Book) Quốc Tế liệt kê những
loài qúy hiếm hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng tại
từng vùng hay quốc gia. Đức quốc có
Sách Đỏ cho nước Đức và từng tiểu bang. Việt Nam
cũng có Sách Đỏ, phần Động vật và phần
Thực vật. Để đánh giá tình trạng
các loài trong Sách Đỏ người ta chia 5
cấp đánh giá: 1/Đang nguy cấp, Endangered (E)
(đang bị đe dọa tuyệt chủng). 2/Sẽ nguy cấp, Vulnerable (V)
(có thể bị đe dọa tuyệt chủng). 3/Hiếm, Rare (R)
(có thể sẽ nguy cấp). 4/Bị đe dọa, Threatened (T) (bị đe
dọa). 5/Biết không chính xác,
Insufficiently known (K) (nghi ngờ và không biết
chắc chắn vì thiếu thông tin).
Hiện nay có rất nhiều chương trình phục hồI
các loài thú qúy hiếm từ
biện pháp tái định cư đến gây giống
và bảo tồn tạI các vườn bách
thú. Riêng về thực vật nhiều vườn thực vật
đã được thành lập với mục đích:
-công cộng: giới thiệu các loài
cây cho sinh viên và công
chúng
-không công cộng: sưu tầm, chăm sóc,
phối hợp và điều hoà với các chương
trình khác
-sưu tầm trong vườn thực vậ cho giảng dạy và
nghiên cứu, lai giống (canh nông và nghề
làm vườn)
-chia xẻ gánh nặng cho các loài hoa
dại như chụp ảnh, phát triễn và trao đổi,
tài liệu di truyền cho bảo tổn (phát triễn
và tái định cư).
Hiện nay tại Đức nhiều vườn thực vật nổi tiếng bảo tồn rất nhiều
cây, thí dụ:
Vườn thực vật Berlin-Dahlem có 24.000 loài
Vườn thực vật München: 14.000 loài
Vườn thực vật Göttingen: 14.000 loài
Vườn thực vật Halle: 12.000 loài
Vườn thực vật Dresden: 10.000 loài
Vườn thực vật Mainz: 8.500
loài
Vườn thực vật Münster: 8.000 loài
Vườn thực vật Stuttgart: 5.000 loài
Các loài thực vật gồm: thực vật hạt
kín, thực vật hạt trần, rêu, dương xĩ, xương rồng,
thực vật thủy sinh, cây ăn sâu bọ, cây họ
thơm v.v...
4/ Hãy nhìn các loài hoa
ngoài đồng
Chúng ta hãy nhìn các
loài hoa ngoài đồng, chúng
làm đẹp thế gian của Đức Chúa Trời.
Chúng không làm gì cho sự
đẹp đẻ của chúng. Đó là do Đức
Chúa Trời tạo nên. Chúng ta
hãy nhìn các loài chim đang
bay, nhìn các hoa diên vĩ (Lilien;
iris) đang nở, cả hai không bao giờ nghĩ đến ngày
mai vì Đức Chúa Trời đã lo cho
chúng (Ma-Thi-ơ 6:28-30). Chúng ta hãy
nhìn các người khác đang đứng gần hay
đứng xa chúng ta, mỗi người đều được Chúa thương
xót. Chúa đã hoàn
thành tất cả cho họ kể cả anh và tôi,
chúng ta chỉ sống và làm theo lời của
Đức Chúa Trời thì chúng ta trở
thành con của Ngài (Rô-Ma 8:14)
và chúng ta bước đi bởi đức tin vào
Ngài (II Cô-Rinh-Tô 5:7).
5/ Tài liệu tham khảo
1. Đặng Mộng Lân, Nguyễn Quang Anh và c.t.v.: Tự
điển môi trường và phát triển bền vững.
NXB: Khoa học và Kỷ thuật, 2001
2. Dolder, Willi und Dolder-Pippke, Ursula: Bedrohte Tiere. Parragon
Books Ltd
3. Duden: Biologie. Duden PAETEC, Berlin, 2008
4. Flindt, Rainer: Biologie in Zahlen 5.Auflage, Spektrum Akademischer
Verlag, 2000
5. Laux, H. E.: Geschützte und bedrohte Pflanzen. Wiss.
Verl.-Ges., 1988
6. Lê quốc Hưng: Thiên nhiên
và thế giới động vật. NXB: Phụ Nữ, 2004
7. Linder: Biologie. Schroedel Verlag, Hannover, 2003
8. Phạm Thu Hoà: Đời sống động vật. Tập một. NXB: Trẻ,
2008
Đuốc
Thiêng 101
01
Càng
nhiều càng tốt - ĐTPÂ
02
Thơ:
Kỷ niệm Đại Hội Tin Lành Âu Châu-
Đức Huy
03
Thơ:
Đại Hội Tin Lành Âu Châu Hòa
Lan - Đức Huy
04
Kiếp
phù sinh - TC Hừng Đông
05
Phục vụ
Chúa - Mục sư Nguyễn Văn Bình
06
Cao đẹp
tình Cha - Nguyễn Đình Bùi
Thị
07
Tình
mẫu tử - Bà Lê Văn Bắc
08
Thơ: Phụng
sự
Chúa
- Đức Huy
09
Đời chẳng
ai ngờ - Vinh Bằng
10
Tiểu sử
Thánh Ca - Fanyia
11
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
12
Xứ Do
Thái khi Chúa Jêsus khởi sự
công tác
- Mai Đào
13
Đức
Giêhôva là Đấng chăn giữ
tôi: Tôi sẽ chẵng thiếu thốn gì
- MSNC
Lê Văn Thể
14
Cục gạch
- Thanh Nguyên
15 Phát triễn và bảo tồn thực vật - Dr Trương
Hoàng Lâm
16
Tin Tức
- Vinh Bằng