Đời chẳng ai ngờ - Vinh Bằng
Đuốc Thiêng 95,
tháng 6 năm 2008
(Xin xem từ Đuốc Thiêng 74)
Sau biến cố ở Hội thánh Song Phú (Ba
càng) nói trên, tôi gấp
rút lo hồ sơ đi Vientiane (Ai Lao) truyền giáo.
Vừa giúp văn phòng truyền giáo của
Trưởng Ban Truyền Giáo Mục sư Phạm văn Năm ở Sài
Gòn, vừa lo hồ sơ và học thêm tiếng
Anh. Chờ đợi mấy tháng liền tưởng mọi chuyện dễ
dàng, ngờ đâu phải đối diện thêm một số
khó khăn khác. Trước tiên, trong hạng
tuổi quân dịch, nhất là trong đất nước
có chiến tranh, việc cứu xét xuất ngoại gặp một
số hạn chế, phải vận động xin hết chỗ nầy tới chỗ khác mới
xong, rốt cục chính phủ chỉ cho một mình
tôi đi trước mà thôi, gợi ý
sau khi ổn định mọi sự mới lập hồ sơ đem vợ con đi sau. Trong khi
tôi đang đối diện với một vấn đề hết sức rắc rối,
thì Mục sư Ông văn Huyên, lúc
đó là Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học
viện Nha Trang, khuyên không nên đi trong
điều kiện như vậy, khi nào chính phủ đồng
ý cho cả gia đình vợ chồng con cái
xuất ngoại, đó mới chính là
ý Chúa. Thế là Mục sư Đoàn
văn Miêng, Hội Trưởng Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam và Ủy Ban Truyền Giáo
của Tổng Liên Hội Hội thánh Tin Lành
Việt Nam phải đích thân gặp Thủ tướng
chính phủ, lúc bấy giờ là Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm xin can thiệp và giúp
đỡ.
Chẳng bao lâu, tôi có giấy
phép xuất ngoại sang Vientiane cả gia đình vợ
chồng và 4 con, hai trai hai gái. Nguyễn
Thánh Đạo, con trai lớn lúc đó mới 9
tuổi, Nguyễn Thánh Ngôn 6 tuổi, Nguyễn Thị
Xuân Hiền 4 tuổi và Nguyễn Thị Xuân
Trang chưa đầy 2 tuổi còn bồng trên tay. Khi đến
tòa đại sứ Laos xin visa đi Vientiane, lại gặp nan đề
khác. Để có visa định cư ở Laos lâu
dài, thủ tục đòi hỏi phải chờ đợi cứu
xét ít nhất 3 tháng, nếu vậy
thì các giấy tờ liên hệ khác
sẽ hết hạn, phải làm hồ sơ lại, chưa biết khi nào
mới xong, việc lên đường còn nhiều trắc trở.
Tôi xin ý kiến của Ủy Ban Truyền Giáo.
Sau nhiều ngày cầu nguyện xin ý Chúa,
Ủy Ban Truyền Giáo và chúng
tôi quyết định lấy visa du lịch đi Laos vì
không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Loại visa nầy
chỉ xin chưa đầy một tuần lễ thì có ngay.
Tôi không hiểu sao lúc ấy họ chỉ
ký cho gia đình tôi sang Laos theo diện
du lịch thời hạn có 15 ngày thay vì 3
tháng như các nước hiện nay áp dụng.
Sau thời hạn ngắn ngủi đó phải rời khỏi lãnh thổ
của họ. Đây không phải là chuyện dễ
dàng, ra đi như thế thật mạo hiểm. Chẳng lẽ đi truyền
giáo mà chỉ có 15 ngày rồi
trở về? Làm sao trong 15 ngày có thể
xin thủ tục ở lại được? Bài toán không
có đáp số. Con đường trước mặt quá
chông gai. Trong khi đó, ở Laos, Ông
Dương Quang Trung, đại diện Hội thánh Tin Lành
Việt Kiều tại Vientiane điện cho Ủy Ban Truyền Giáo bảo nếu
với loại visa du lịch như thế thì xin đừng đi, phải chờ cho
đến khi nào có visa định cư rồi hẳn đến,
vì không thể nào có
cách gì xin ở lại truyền giáo với loại
visa du lịch ấy được.
Vé máy bay đã mua sẵn từ trước. Ủy Ban
Truyền Giáo quyết định tôi cứ đi, dù
với visa du lịch ngắn hạn như thế, cứ sang đó lập thủ tục
xin ở lại. Biết đây không phải là chuyện
đơn giản dễ dàng, mọi người cầu nguyện thiết tha xin
Chúa làm phép lạ cho chuyến đi của
chúng tôi và việc chuyển từ diện du
lịch sang diện định cư tại Laos không gặp trở ngại, đồng thời
xin Chúa cho công tác truyền
giáo của chúng tôi tại Laos được
Chúa ban phước, đem nhiều thành quả tốt đẹp quy
vinh hiển danh Chúa.
Thế là chiều ngày 13 tháng 8 năm 1974,
tôi và gia đình được Ông
bà Mục sư Phạm văn Năm dùng xe tư gia đưa
chúng tôi ra phi trường Tân sơn Nhất bay
sang Laos với tư cách giáo sĩ truyền
giáo. Tháp tùng chuyến tiễn đưa
còn có Bà Sophie, trưởng nữ
ông bà Mục sư Phạm văn Năm, Ông Trần văn
Bào, nhạc gia chúng tôi từ Long
Xuyên và Nguyễn Hồng Dân, em
út tôi từ Vĩnh Long đến. Buổi đưa tiễn tuy đơn sơ,
nhưng thật cảm động. Trên tờ Thánh Kinh Nguyệt San
của Hội thánh Tin Lành Việt Nam lúc
đó, có lẽ vì tin trễ, nên
trên trang báo phát hành
vào tháng 7-8/1974 chỉ đăng vỏn vẹn tấm
hình vợ chồng chúng tôi chụp ở phi
trường với hàng chữ: "Mục sư Nguyễn văn Bình
và bà đang chuẩn bị lên đường truyền
giáo tại Ai Lao".
Vương quốc Lào, còn gọi là Ai Lao hay
Laos, rộng khoảng 237.000 km2, nằm lọt giữa các nước
Thái Lan, Miến Điện, Trung Hoa, Việt Nam và
Campuchia, dân số rất ít, khoảng độ 4 triệu người
lúc tôi đặt chân đến. Con sông
Cửu Long (Mékong) chảy từ thượng nguồn ở Trung Hoa
xuyên qua Miến Điện (Birmanie), đổ vào
Lào trước khi chảy qua Thái Lan, Cao
Miên và Việt Nam rồi ra biển theo 9 cửa ở
vùng biển Việt Nam. Bốn thác nước trên
sông Cửu Long tạo thành 3 lưu vực tập trung
dân cư đông đúc từ Bắc chí
Nam gồm Luang Prabang, Vientiane (Vạn Tượng) và Champas-sak.
Luang Brabang là đế đô của vương quốc
Lào, còn thủ đô hành
chánh và kinh tế là Vạn Tượng
(Vientiane). Cánh đồng Chum ở bình
nguyên Xiêng Khoang được coi là nơi tiền
sử của dân tộc Lào, vì tại
đây người ta đã tìm thấy những
cái chum bằng đá đựng xác người được
xác nhận có từ những thế kỷ trước Tây
lịch. Ngoài ra còn có một số
thành phố quan trọng khác như Savanakhet,
Paksé. Lào thuộc vùng khí
hậu nhiệt đới, nóng bức, nhiều núi non
và rừng rậm chiếm 75% đất đai, chỉ có chừng 5%
đất trồng trọt và canh tác.
Như Việt Nam, vương quốc Lào nhiều năm nằm dưới sự
đô hộ của Pháp từ năm 1893, tổ chức
thành vương quốc, có vua đóng
đô ở Luang Prabang, còn người Pháp
có thống đốc ở Vientiane. Cuộc kháng chiến chống
Pháp cũng như cuộc chiến tranh Quốc Cộng sau nầy do lực
lượng Pathet Lào lãnh đạo, có sự trợ
giúp của Cộng sản Việt Nam. Tháng 2-1973,
chính phủ quốc gia Lào và Pathet
Lào thỏa thuận về Hiệp định vãn hồi
hòa bình, tái lập Liên Hiệp
tại Lào, hai tổ chức thành lập chính
phủ đoàn kết dân tộc, mỗi bên đều
có đại diện trong chính phủ. Sau biến cố
30-4-1975, ngày 2-12-1975, Pathet Lào
chính thức lên nắm quyền thành lập nước
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân
Lào, do đảng Cánh Mạng Nhân
Dân Lào lãnh đạo.
Lào là một vương quốc có nhiều phức
tạp cả về văn hóa lẫn sắc dân. Có nhiều
dân tộc sống ở Lào như: Người Tày,
thiên di từ miền Trung Tây của Trung Hoa đến
Đông Nam Á khoảng từ giữa thế kỷ 7 đến thế kỷ 13,
sống rải rác ở các nước như Thái Lan,
Miến Điện, Tây Bắc Việt Nam và Lào. Tại
Lào, họ sống tập trung ở cả Hạ Lào và
Thượng Lào. Ở các tỉnh phía Bắc
có người Lu, có người Tày Trắng, người
Tày Đen, người Tày Đỏ, tùy theo
màu sắc quần áo của phụ nữ mặc mà
người ta phân biệt như vậy. Ngoài ra
còn có người Tày Neua. Ngày
nay, người ta gọi chung những người Tày đó
là "Lào Lùm".
Ở trên vùng cao nguyên, còn
có dân tộc gốc Mon-Khmer, hậu duệ của
dân tộc sống lâu đời tại đây trước khi
có người Tày thiên di tới. Người
Tày gọi họ là "người Kha", có nghĩa
là "nô lệ", tỏ vẻ khinh thị, coi họ như một
dân kém văn minh. Ngày nay,
dân tộc Mon-Khmer còn được gọi là người
Lào Thượng hoặc "Lào Thơng". Họ sống chung trong
các làng xã như một cộng đồng miền
núi, ít quan tâm tới chính
trị.
Ngoài ra, còn một số sắc tộc khác sinh
sống tại Lào, nguyên là thổ
dân gốc từ Tây Tạng và Miến Điện, gọi
là "Lào Xưng" thiên di đến
vùng Thượng Lào vào cuối thế kỷ 18 đầu
thế kỷ 19, sống chuyên về trồng cây thuốc phiện,
bao gồm dân tộc Hmong, Yao, Mon. Dân Hạ
Lào gọi người Hmong là "người Mèo",
có nghĩa là "dã man", khiến cho người
Hmong căm tức không vui.
Tại Lào còn có rất đông cộng
đồng người Trung Hoa, riêng người Việt Nam sinh sống tại
Lào vào khoảng 30 ngàn người.
Chung quanh Vientiane (Vạn Tượng) còn có một số
người Thái Đăm (Thái Đen) từ Việt Nam tới, sống
chen chúc trong vài làng ven
đô lên đến vài ngàn người.
Đuốc Thiêng 95
1
Những gì
không rúng chuyển - ĐTPÂ
2
Thơ: Chúa
toàn năng - Trần Nguyên Lam Bửu
3
Uy quyền của Đức Chúa
Giê Xu - MS Nguyễn Văn Bình
4
Thơ: Loài người
quý nhất - Trần Nguyên Lam Bửu
5
Phải chăng đạo Tin
Lành là đạo bỏ ông bỏ bà
- H4
6
Hồn ở đâu
bây giờ? - Bình Tú Ngọc
7
Nhớ cha - H4
8 Đời chẳng ai ngờ - Vinh Bằng
9
Giêrusalem, 4000 năm
lịch sử - Lạc Hồ
10
Xứ Do Thái hồi
Chúa Giê-xu sinh ra - Mai Đào
11
Đêm nhớ về
quê cũ - Bà Lê Văn Bắc
12
Thơ : Tất cả vì
vinh hiển Đức Chúa Trời - Trần Nguyên
Lam Bửu
13
Đọc truyện ngắn của
Bà Lê Văn Bắc - Nguyễn Đình
Bùi Thị
14
Đôca ngày
nay - H4
15
Ước ao của tôi
- Bình Tú Ngọc
Người Lào chính cống hầu hết theo Phật
Giáo Tiểu Thừa, một giáo hội coi như quốc
giáo được chính phủ tôn kính
và giúp đỡ về mọi mặt, kể cả việc xây
cất chùa chiềng. Chỉ tại thủ đô Vientiane
thôi, người ta nói có đến 99
ngôi chùa, chùa nào cũng
nguy nga, lộng lẫy, khuông viên rộng lớn hằng mấy
mẫu tây. Nhưng các dân tộc ít
người khác, đa số theo đa thần, thờ bái vật
giáo, bùa phép mê
tín dị đoan. Người Kha ở vùng Thượng
Lào đa số chống Phật giáo, cương quyết giữ độc
lập với niềm tin đa thần giáo của mình. So với
các dân tộc các nước chung quanh, người
Lào được coi là dân tộc hiền
hòa, đơn sơ, không đòi hỏi, cầu an,
ít quan tâm tới thương mại, do đó, nền
kinh tế Lào đa số nằm trong tay của các ngoại
kiều như Trung Hoa, Thái Lan, Việt Nam. Họ ăn uống rất đạm
bạc, chỉ có sôi nếp với "tầm sụm", là
món ăn truyền thống gồm đậu đũa, hoặc đu đủ, đăm chung với
mắm cá và ớt thật cay, hoặc sang trọng hơn
thì có "lạp" có lòng
bò, gan bò, thịt bò, trộn với gạo rang
làm thính, rau húng, rau răm v.v...
nêm nếm vừa miệng, ăn chung với sôi nếp,
có món chấm lấy từ ruột non bò,
là món ăn truyền thống mà
khách ngoại quốc rất ưa thích. Món
"Khầu Lạm" nướng chín thành xôi từ ống
nứa gồm nếp với nước cốt dừa, ăn chung với đùi gà
nướng cũng là món đặc sản rất ngon.
Tin Lành được truyền đến Lào sớm hơn ở Việt Nam 9
năm, khởi đầu từ năm 1902, do các giáo sĩ thuộc
Hội Truyền Giáo Anh Em ở Thụy sĩ cử sang. Họ hoạt động đa số
ở vùng Hạ Lào, có trung tâm
truyền giáo tại Paksé và 2 trung
tâm khác nữa. Công cuộc truyền
giáo tuy có phần khó khăn, nhưng
Chúa cho từ từ có rất nhiều người tin
Chúa, ảnh hưởng rất lớn. Họ cũng đã dịch
toàn bộ Kinh thánh ra tiếng Lào
giúp cho nhiều người tiếp cận được với lời Chúa,
giúp cho cửa truyền giáo rộng mở thêm
hơn.
Ở Thượng Lào, Hội Truyền giáo Bắc Thái
Lan thuộc hệ phái Trưởng Lão đưa giáo
sĩ sang Luang Prabang truyền giảng cho người Kha, đưa đắt
hàng trăm người Kha tin Chúa. Hội truyền
giáo Hải ngoại, hậu thân của Hội Truyền
Giáo Trung Hoa Lục Địa, năm 1951 cũng cử giáo sĩ
đến giảng Tin Lành cho Hoa kiều sống ở Lào. Về
sau, hội nầy cũng hiệp tác với Hội truyền giáo
Anh Em của Thụy sĩ truyền giáo cho những dân tộc
ít người trong khắp vùng Hạ Lào, gặt
hái nhiều kết quả khả quan.
Dù Hội Truyền Giáo Phước Âm
Liên Hiệp (CMA) do Mục sư AB Simpson thành lập với
khải tượng truyền bá Phúc Âm
toàn cầu đã gởi giáo sĩ đến Việt Nam
từ năm 1911 rao giảng Tin Lành thành lập Hội
thánh khởi đầu từ Đà Nẵng (Quảng Nam)
và lan rộng lần đến các tỉnh thành
khác khắp các vùng Bắc Trung Nam Việt
Nam, có trường Kinh thánh, có Kinh
thánh dịch xong ra tiếng Việt, nhưng mãi đến năm
1929, Hội nầy mới khởi đầu gởi giáo sĩ đến Lào.
Năm 1929, giáo sĩ G.E Roff được cử đến Luang Prabang học
tiếng, mở trung tâm truyền giáo ở đó.
Hội cũng gởi giáo sĩ đến Vientiane năm 1931 mở trung
tâm truyền giáo tại đây rồi sau
đó mở thêm một trung tâm nữa ở
Xiêng Khoang.
Khi các giáo sĩ bắt đầu nói được tiếng
Lào, họ mời các giáo sĩ thuộc Hội
Truyền Giáo Anh Em của Thụy sĩ từ Hạ Lào đến cộng
tác truyền giảng Tin Lành ở Vientiane, đặc biệt
là ở Luang Prabang, nhờ vậy thu gặt được một số
thành quả đáng khích lệ, có
một số người tin Chúa. Ông Chao Souvanaphalom
là một trong những trái đầu mùa tin
Chúa tại Luang Prabang. Năm 1934, ông Saly
Kounthapanya sau khi tiếp nhận tình thương cứu rỗi của
Chúa, ông hăng say ra đi truyền bá Tin
Lành, đưa dắt được một số người tin Chúa.
Dân chúng trong vùng thấy cuộc đời
ông biến đổi lạ lùng, nên rất
chú ý tới Tin Lành. Về sau
ông trở thành Mục sư đầy ơn, giữ chức vụ Hội
Trường Hội thánh Lào trong nhiều năm.
Tôi hân hạnh được gặp ông vài
lần, có dịp tâm tình với vị
lãnh đạo tiền phong của Hội thánh đầy ơn ấy,
lúc đó ông đã hưu hạ sống
tại Vientiane, nhưng cũng góp phần phục vụ Chúa
trong nhiều lãnh vực. Ông vui vẻ, cởi mở,
yêu thương mọi người. Lúc tôi gặp
khó khăn khi biến cố 1975 xảy ra ở Việt Nam và ở
Lào, ông an ủi và khích lệ
tôi cứ ở lại Lào, ông và Hội
thánh Lào hứa sẽ giúp đỡ và
bảo trợ cho tôi tiếp tục phục vụ Chúa giữa người
Việt Nam và người Lào. Chẳng bao lâu
sau đó, ông bị gọi đi học tập cải tạo,
tôi thật xót xa khi nghe tin ấy, không
biết tuổi già ông có thể có
đủ sức chống chọi với khổ nạn của sự đày ải không.
Tôi cũng có dịp gặp cụ G.E Roff, vị
giáo sĩ tiền phong của vương quốc Lào tại tư gia
của cụ ở Vientiane. Với tuổi trạc 80 lúc đó, cụ
vẫn còn vóc dáng của một người khỏe
mạnh, hoạt bát, khiêm nhường đầy ơn. Cụ kể về
quá khứ truyền giáo ở Lào với nhiều
khó khăn gai góc. Có những người
Lào tiếp nhận Chúa, nhưng khi trở về
nhà họ bị gia đình bắt bớ buộc phải bỏ đạo. Họ
áp lực cho đến khi nào người ấy bỏ đạo mới
thôi. Dù vậy công việc Chúa
vẫn phát triển. Chúa cho mở được trường Kinh
thánh ở Vạn tượng, ở Xiêng Khoang đào
tạo người phục vụ Chúa. Lúc tôi ở
Lào thì Mục sư Seng Pao Thao làm Hội
trưởng, số tín đồ tại vương quốc Lào
lúc ấy trên dưới 15.000 người, đa số là
người Hmong. Nhiều nhà thờ Tin Lành được
thành lập rải rác khắp vương quốc Lào.
Công việc Chúa đang trên đà
phát triển.
Tại vương quốc Lào, người Việt định cư cũng khá
đông, tập trung nhiều nhất ở Vientiane, ở Paksé,
số khác ở tại Savanakhét và Luang
Prabang và một ít ở rải rác trong
các tỉnh thành, làng mạc
khác. Nhiều người sống tại đây rất lâu
đời, có những người di cư từ Bắc Việt, một số
khác đến từ Miền Trung hoặc miền Nam Việt Nam. Có
người làm công chức từ thời Pháp thuộc,
rồi ở lại coi đây như quê hương của
mình, có người đến Lào kinh doanh,
buôn bán lập nghiệp. Người Việt Nam một số
làm ăn rất thành công ở Lào,
đời sống có vẻ sung túc thoải mái.
Từ năm 1932 đã có một số Việt Kiều tin
Chúa ở Lào rồi. Về sau lại có một số
tín đồ từ Việt Nam tới, lần hồi số tín hữu tăng
nhiều thêm, nhất là tại thủ đô
Vientiane. Nhu cầu nuôi dưỡng thuộc linh cho anh em
tín hữu và công tác truyền
bá Phúc âm cho cộng đồng người Việt rất
cấp thiết, nên năm 1962, Ủy Ban Truyền Giáo
và Tổng Liên Hội Hội thánh Tin
Lành Việt Nam cử ông bà Mục sư Nguyễn
Hậu Nhương, một nhà truyền giáo lâu năm
trên miền thượng du Việt Nam đầy ơn và kinh nghiệm
đến Lào. Ông bà là
giáo sĩ đầu tiên trong lịch sử Hội
thánh Tin Lành Việt Nam. Trong khi các
Mục sư lên miền Cao nguyên Việt Nam giảng Tin
Lành cho các sắc tộc thiểu số được gọi
là Mục sư truyền giáo, hoặc vị Mục sư được gởi
qua Pnom Pênh (Nam Vang) ở Cao Miên chăn dắt Hội
Thánh Việt Kiều tại đó được gọi là Mục
sư quản nhiệm Hội thánh, thì Mục sư đến
Lào, một xứ ngoài Việt Nam, được gọi
là giáo sĩ, vì chẳng những quản nhiệm
Hội thánh Việt Kiều tại Vientiane, chăm sóc
tín hữu Việt Nam tại Paksé hay Savanakhet,
toàn thể nước Lào mà còn
truyền giáo cho người Thái Đăm (Thái
Đen), cũng còn có chương trình truyền
giáo cho người Lào nữa. Ông
bà Mục sư Giáo sĩ Nguyễn Hậu Nhương đã
tạo được một nhà thờ Tin Lành Việt Kiều tọa lạc ở
số 36 đường Pnom Pênh, Vientiane, cất theo kiểu truyền thống
Việt Nam, chứa được khoảng hơn 100 người, với một tư thất có
đủ phòng ốc cho gia đình Mục sư rất tiện nghi
và một khuông viên rộng rãi,
đẹp đẽ. Số tín hữu thờ phượng Chúa mỗi
Chúa nhựt khoảng 60 người. Mục sư còn mở được một
Hội thánh Tin Lành cho người Thái Đăm
ở làng Hong Seng có nhà thờ được
xây cất và một nhóm tín hữu
khác tại làng Nong Boua Thong. Ông
bà còn vận động Hội Hoàn Cầu Khải
Tượng Thế Giới đài thọ lương bổng cho các
giáo viên trường Việt Kiều tại Vientiane
và bảo trợ các em học sinh trường nầy. Sau 11 năm
hầu việc Chúa tại Lào, ông
bà Mục sư giáo sĩ Nguyễn Hậu Nhương trở về Việt
Nam hưu hạ. Ủy Ban Truyền Giáo và Tổng
Liên Hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam cử
tôi tới Lào truyền giáo, nối tiếp chức
vụ giáo sĩ của người tiền nhiệm.