TIN LÀNH VIỆT NAM PARIS & PHÁP
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16)
Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)
Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
Đuốc Thiêng 95,
tháng 6 năm 2008
Nguyên-tác : sách "Les croisades vues
par les Arabes"
(Thập-tự-chinh dưới mắt người Ả-rập)
Tác-giả : Amin Maalouf.
Nhà xuất-bản : JC Lattès, Paris, 1983.
Chương 51/3 : Quân Franj ăn thịt người (tiếp theo)
(coi Đuốc Thiêng từ số 3)
Tripoli khôn mà lo
Trong số các phái đoàn theo
chân nhau vô các phòng rộng
mênh mông mà không
có bàn ghế ở Hosn al Akrad, phái
đoàn Tripoli (Tripoli nói đây
là hải cảng của xứ Liban, nằm trên ven biển
phía đông biển Méditerranée,
đừng lộn với Tripoli, nằm trên ven biển phía nam,
là thủ đô xứ Libye) hào
phóng hơn hết. Phái đoàn Tripoli lần
lượt đưa ra những nữ trang đẹp tuyệt vời, do các nghệ sĩ Do
thái ở Tripoli chế tạo, với lời nồng nhiệt chào
thăm của chủ thành Tripoli, là cadi Jalal el
Moulk. Anh nầy là dòng dõi của gia
đình Banou Ammar, nhờ tay gia đinh nầy mà Tripoli
trở thành "hòn ngọc quý" của
dân Arabe. Danh tiếng của gia đình nầy,
không phải là do đường lối thông thường
như trăm ngàn các địa phận nầy khác
trong vùng, dùng võ lực mà
chiếm đoạt rồi cai trị. Đây là gia đình
trí thức, sáng lập viên là
một quan toà, với chức tước cadi, và từ
đó, các chủ tỉnh Tripoli liên tiếp mang
chức cadi.
Nhờ đường lối khéo léo của chủ tỉnh, khi
quân Franj đến gần, Tripoli và vùng phụ
cận được sống bình an, thạnh vượng, làm
các vùng lân cận thèm
thuồng. Tripoli có một báu vật, là thư
viện Dar el Ilm, một "nhà văn hoá" rộng
mênh mông với 100 ngàn cuốn
sách, một trong những thư viện nổi tiếng của thời
đó. Bao quanh thành phố, là những
cánh đồng đầy cây trái đủ thứ, bến
tàu hoạt động mạnh mẽ.
Chắc chắn rằng sự trù phú của thành
phố nầy gây cho Tripoli bắt đầu có rắc rối với
quân xâm lăng. Trong thông điệp gởi tới
chào thăm tướng Saint Gilles, Jalal el Moulk đề nghị Saint
Gilles gởi tới Tripoli một phái đoàn để
ký thỏa ước thân thiện. Đây
là lỗi lầm căn bản. Khi phái đoàn
quân Franj đến Tripoli, họ bị lóa mắt bởi sự
giàu có của Tripoli, nào lâu
đài, nào vườn cây trái, đồng
ruộng, hải cảng, chợ, kho hàng, tất cả đều quá
tốt, họ chẳng để vào tai nữa những đề nghị thân
thiện của cadi. Họ chỉ nghĩ đến chuyện những gì sẽ
vào tàu họ nếu chiếm Tripoli. Và chắc
hẳn khi trở về gặp chủ tướng, họ đã làm đủ
cách để gợi lòng tham. Còn Jalal el
Moulk cứ ngây thơ chờ Saint Gilles trả lời, cho đến
ngày 14 tháng 2, quân Franj tới
vây hãm thành phố Arqa, là
thành phố lớn thứ nhì của địa phận Tripoli. Y
thất vọng đã đành, mà lại kinh
hoàng, trong bụng chắc chắn rằng đây là
bước đầu của quân Franj tới chiếm thủ đô của
mình. Mình sẽ chung số phận với Antioche sao?
Jalal el Moulk đã hình dung ra mình
giống như Yaghi Sivan, cúp đầu cưỡi ngựa chạy để chết, để
người ta quên. Ở Tripoli, người người lo rằng sẽ
có cuộc vây hãm dài
dài, vậy phải lo tích trữ lương thực,
và mọi người hỏi nhau là thành phố
Arqa sẽ cầm cự được bao lâu. Mỗi ngày
trôi qua là thêm một ngày
thấp thỏm chờ đợi.
Tháng 2, tháng 3 đã qua, nay
là tháng 4. Như mọi năm, bao quanh Tripoli
các vườn cây ăn trái trổ bông
thơm lừng cùng với tin tức phấn khởi : quân Franj
vẫn không lấy được Arqa, chuyện nầy gây ngạc
nhiên không ít cả về phía
quân giữ thành và phía
quân xâm lăng. Dĩ nhiên là
Arqa có tường thành kiên cố, nhưng cũng
chỉ một tầm cỡ với những thành khác mà
quân Franj đã chiếm được. Sức mạnh của Arqa ở chỗ
tất cả dân chúng tin quyết ngay từ phút
đầu bị vây, rằng nếu chỉ để hở một chút
xíu là hết thảy sẽ bị cắt cổ như thể
dân chúng ở Maara và Antioche. Họ thức
canh ngày đêm, đẩy lui tất cả mọi vụ tấn
công, ngăn cản mọi hình thức xâm nhập.
Quân xâm lăng riết rồi nản lòng, lại
còn chia rẽ nhau, tiếng họ cãi nhau vang tới
trong thành. Ngày 13 tháng 5 năm 1099,
họ cụp tai rút đi. Sau ba tháng chiến đấu
rã rời, Arqa thoát nạn, reo lên sung
sướng.
Quân Franj lại tiến về phía nam. Họ đi ngang
Tripoli, nhưng đi chậm, chậm cách đáng lo ngại.
Jalal el Moulk hiểu là họ đang bực mình, vội
vàng gởi tới họ lời cầu chúc thành
công cho cuộc hành trình,
kèm theo lương thực, vàng, và
vài con ngựa, lại cho cả hướng đạo viện để dẫn họ
trên con đường hẹp ven biển đưa đến Beyrouth. Góp
sức với các hướng đạo viên nầy, là một
số cơ đốc nhân phái maronites từ xứ Liban đến,
Quân Franj vượt qua sông Nahr el Kab, nghĩa
là "sông con chó", và bước
qua sông nầy, có nghĩa là
quân Franj ở trong tình trạng gây chiến
với xứ Egypte.
Chia rẽ trong nội bộ chúng ta
Chúng ta trở ngược lại 2 năm trước. Người mạnh nhứt ở xứ
Egypte (Ai cập) lúc nầy dưới quyền vua, là vizir
Afdal Chahinchah, một người cao lớn, oai vệ Anh nầy vốn là
nô lệ, nay đứng đầu một nước Egypte trù
phú với 7 triệu dân. Tháng 4 năm 1097,
anh nầy không giấu sự thỏa lòng khi tiếp
phái đoàn do vua Alexis từ Constantinople sai
đến, báo tin rằng đoàn quân
đông đảo các hiệp sĩ cơ đốc tây phương
đã tới Constantinople, và nay bắt đầu
lên đường sang vùng Tiểu Á. Thoả
lòng thiệt hay không, chúng ta cũng
nghĩ như sử gia Ibn al Athir: "Có người kể rằng
các lãnh tụ Egypte lo sợ khi thấy triều đại
Seljoukide phát triển bờ cõi, nên họ
yêu cầu quân Franj tiến vào xứ Syrie,
lập một vùng trái độn giữa họ và
dân hồi giáo. Tin nầy thiệt hay không,
chỉ có Allah biết".
Cách giải thích trên đây của
sử gia Ibn al Athir cho ta thấy rõ trong dân hồi
giáo có sự chia rẽ giữa hai phe. Một phe
là các xứ sunnites, thần phục vua
giòng Abbaside ở Bagdad (thủ đô xứ Perse). Phe kia
là các xứ chiites, thần phục vua giòng
fatimide ở Caire (thủ đô xứ Egypte). Chia rẽ bắt đầu từ thế
kỷ thứ 7, nguyên do là tranh chấp trong gia
đình của tiên tri Mahomet, và
không ngừng gây ra những trận chiến gay go trong
vùng hồi giáo. Phe nầy coi phe kia là
"phản giáo", cho nên ngay cả Saladin, lừng lẫy về
tài ngoại giao và chính trị, cũng coi
việc chống lại phe chiites là quan trọng không
kém việc chống lại quân Franj. Có thể
là chuyện phe fatimide kêu gọi quân
Franj chỉ là giả thuyết, nhưng chuyện họ thỏa
lòng khi quân Franj đến là chuyện
có thiệt.
Seldjoukides : kẻ thù chung
Khi quân Franj chiếm được Nicée, vizir al Afdal
đã nhiệt liệt chúc mừng Alexis. Và 3
tháng trước khi quân xâm lăng chiếm
Antioche, một phái đoàn Egypte mang đầy tặng phẩm
đến thăm viếng quân Franj, chúc họ sẽ
thành công (chiếm Antioche), cùng đề
nghị ký hiệp ước hữu nghị với nhau.