Đọc "Biển
rộng hai vai" của Lữ Thành Kiến - Nguyễn
Đình Bùi Thị
Đuốc Thiêng
100,
tháng 04 & 06 năm 2009
Trên Đặc san Hướng Đi (HĐ), bài của Mục Sư Lữ
Thành Kiến xuất hiện với tần suất khá nhiều,
nhưng bài nào bài nấy đều
có một cái gì đó
đáng để đọc và suy nghĩ.
Tôi đã đọc được một số bài của Mục Sư
Lữ Thành Kiến từ khi làm quen được với Đặc san HĐ
cách đây vài năm. Mỗi khi có
HĐ, tôi thường xem qua lướt một lượt các
bài vở của các tác giả và
rồi xem lần lượt các bài theo sở thích
của mình. Những bài của Mục Sư Lữ
Thành Kiến tất nhiên đều là những
bài nằm trong sở thích của tôi,
nên tôi đều... ưu tiên để đọc.
Vừa rồi, tôi được chính Mục Sư Lữ Thành
Kiến gởi tặng cho tôi quyển "BIỂN RỘNG HAI VAI" (BRHV) với
lời đề tặng và chữ ký rất dễ thương của
ông. "BRHV" là một tuyển tập thơ văn của Mục Sư Lữ
Thành Kiến vừa được ấn hành tại Hoa Kỳ năm 2008.
Tuyển tập dày 240 trang, in trên giấy trắng đẹp.
Mục Sư Nguyễn Văn Huệ viết lời tựa và nhà văn
Trần Dạ Từ viết lời bạt. Xen kẽ giữa 21 truyện ngắn
và truyện ký, là những bài
thơ rất duyên dáng cũng của Mục Sư -Văn Sĩ - Thi
Sĩ Lữ Thành Kiến.
Có thể nói rằng, tình yêu
là chủ đề xuyên suốt được tác giả kết
tinh lại trong 21 truyện và ký ở BRHV thật cảm
động, nói như tác giả đã
nói: "Phải công nhận rằng tình
yêu có một vẻ đẹp. Và vẻ đẹp
đó thật lại diệu kỳ... Nó diệu kỳ vì
sao bạn biết không? Bởi vì cái cội
nguồn của tình yêu phát
nguyên từ Đức Chúa Trời". (Làm Sao Định
Nghĩa Được Tình Yêu, p. 171, 172).
Trước hết và trên hết, đó là
tình yêu cao cả, nhiệm mầu của Thiên
Chúa dành cho chính tác giả
cũng như cho mọi người. Tình yêu ấy
bàng bạc trong hầu hết các truyện, dưới nhiều
cách thể hiện khác nhau, khiến trái
tim của độc giả không thể nào không bị
lay động, không thể nào hững hờ. Dầu đã
học, đã biết, đã giảng về sự kiện Chúa
Giê-su chịu chết trên thập tự giá
vì tội lỗi của nhân loại nhiều lần lắm trong đời,
nhưng tim tôi vẫn rung lên khi đọc những
dòng văn nầy:
"Tôi nhìn lên Chúa.
Đó là Jesus trên thập tự
giá, hai tay giang ra trên hai thanh gỗ, những mũi
đinh cắm ngập vào hai bàn tay, hai bàn
chân, máu tuôn ra lai láng từ
bên hông, từ trên đầu, từ chiếc
mão bằng gai nhọn, và thân thể
thì tan nát bởi những lằn roi móc sắt.
Nhưng nỗi đau không chỉ trong xương thịt mà đau
thấu bên trong lòng, đau thắt trái tim,
vì sự phản bội của các môn đồ. Vậy
mà sao Chúa không có một lời
trách móc nào, chỉ là
cái nhìn đớn đau thấu suốt tâm hồn, rồi
thôi. Thế thì tôi còn
trách móc gì nữa, cái quan
tài của tôi bỗng hoá ra quá
nhỏ so với cái quan tài mang xác
Chúa" (Tình Yêu Như Biển, p. 150).
Ở một truyện khác, tác giả đã diễn tả
tình yêu cao đẹp ấy của Thiên
Chúa dành cho con người một cách thật
ấn tượng: "Tôi giả dụ rằng bạn và tôi,
đều có tình yêu thương cả, ai cũng
có một trái tim biết rung động vì
tình yêu, nhưng xét cho cùng
không một ai trong chúng ta yêu đến nỗi
đi cho đứa con duy nhất của mình, mà
không phải cho để làm một con người
giàu sang quyền thế. Từ địa vị là một Đức
Chúa Trời cao cả, Người đã được Cho Đi, xuống
trần gian, sinh ra trong một gia đình nghèo,
nghèo không có gì
nghèo hơn nữa. Lớn lên đi vào cuộc đời
sống một cuộc sống phiêu bạt, không nhà
không cửa rày đây mai đó, chỉ
chú tâm vào việc giảng đạo,
và giúp người. Trong suốt thời gian lang thang
trên đất, người đã bị người ta vu cáo,
nguyền rủa, tìm cách giết chết. Và
cuối cùng họ đã thoả nguyện, Người bị bắt, bị
đánh đập tàn nhẫn, bị sỉ nhục, rồi bị
đóng đinh treo trên thập tự giá như một
người có tội. Mà Người không
có tội gì cả. Ngài đã
làm tất cả, chỉ vì Ngài yêu"
(Người Đứng Trên Thế Giới, p. 223, 224).
Đó là tình yêu của
Thiên Chúa dành cho loài
người chúng ta. Còn đây là
tình yêu giữa người và người
mà chính tác giả đã trải
nghiệm với nhiều cung bậc khác nhau của trái tim
đa cảm của một nhà văn.
"Về Mái Nhà Xưa", một câu chuyện với
kết cấu không có gì phức tạp cho lắm,
mà đã khiến trái tim của bạn đọc
không thể nào không thổn thức đến rơi
nước mắt cùng tác giả bởi tình
yêu và sự tha thứ rộng lượng của người cha
dành cho đứa con tên Thư hư hỏng, đã
rút hết tiền trong ngân hàng của cha
rồi bỏ nhà ra đi hoang đàng, sau
đó trở về: "Con biết không, những người
quen của cha thỉnh thoảng đến nhà nhìn thấy
cái bảng cha treo trước cửa, mà khuyên
cha: sao anh cứ treo cái bảng đó mãi
thế, biết bao giờ nó mới về? Cha nói với họ,
nó sẽ về, tôi tin rằng nó sẽ về
mà, khi nó về, nhìn thấy tấm bảng
đó, sẽ yên tâm mà
vào nhà. Tấm bảng đó cha viết từ
lúc con mới bỏ đi, bây giờ đã mờ nhạt
rồi: Thư, nếu con về, hãy mở cửa vào, Bố vẫn chờ
con. Con vẫn còn giữ chìa khóa chứ?
Thư, nếu con có về, bất cứ giờ giấc nào, cứ mở
cửa mà vào nghe con. Nhà
này là nhà của con mà" (Về
Mái Nhà Xưa, p. 32).
Phô diễn vẻ đẹp tuyệt vời của tình yêu
người mẹ, người mẹ của chính mình (và
hầu như người mẹ nào cũng vậy thôi),
tác giả đã dùng hình ảnh
của một đại dương với các dòng sông để
thể hiện tình mẫu tử dành cho con cái
thật bao la, rộng lớn biết nhường nào: "Nhưng mà,
trong những ngày đó, mới thấm thía hết
tất cả vẻ đẹp của những dòng suối khi chảy mãi về
lòng đại dương. Và hình ảnh đại dương
dang rộng vòng tay ôm hết những dòng
suối vào lòng. Ngay cả những dòng suối
đã trở thành sông, chia
thành những sông con, lòng đại dương
vẫn rộng mở. Bà mẹ thành bà ngoại,
bà nội, chắt chiu cho con, rồi cho cháu" (Biển
Rộng Hai Vai, p. 153).
Tôi thích thú vô
cùng khi đọc đoạn kết trong truyện "Biển Rộng Hai Vai":
"Trăng có khi già, gọi là trăng
già, nhưng biển thì chẳng bao giờ già.
Đâu có ai gọi là biển già.
Biển rộng cả hai vai..." (p. 163). Trăng thì có
khi già, nhưng biển thì không. Quả
là một phát hiện thú vị và
chí lý. Ôi, lòng mẹ bao la
làm sao! Mẹ thì có thể già,
nhưng lòng mẹ, tình mẹ thì giống như
biển, không hề già.
Một trong những tình cảm nổi bật mà
tác giả thể hiện trong tập truyện của mình
làm tôi rất tâm đắc và cảm
động, đó là tình cảm dành
cho những linh hồn đồng bào Việt Nam thân
yêu đang hư mất, cần đến sự cứu rỗi của Chúa
Giê-su dành cho họ. Với những đồng bào
Việt Nam chưa được cứu, trái tim của tác giả như
luôn hướng về họ với những gì yêu thương
nhất và luôn mong ước, khát khao họ sớm
đến với Chúa Giê-su như mình để được
sống trong bình an, hạnh phúc như mình
đã hưởng. Hãy nghe những lời yêu thương
ấy của tác giả: "Không có gì
làm cho người ta hạnh phúc khi sống trong
tình yêu. Bạn là ai, đang đau buồn
vì mất mát tình cảm, người
thân qua đời, bị phản bội, bị lừa dối, thiếu thốn,
khó khăn, bệnh tật
, bạn đang ở trong hoàn cảnh
nào mặc dầu, bạn có một người yêu,
yêu bạn đến nỗi sẵn sàng chết cho bạn
và trung thành với bạn cho đến giây
phút cuối cùng. Dù mưa, dù
nắng, dù băng giá, dù bão
bùng, dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào, người ấy cũng ở ngay bên cạnh bạn. Bạn
có biết điều ấy không? Bạn yêu dấu, bạn
nên biết" (Mùa Xuân Chắp Cánh
Bay, p. 115).
Tôi đã từng nhiều lần có lời gọi mời
thân hữu tiếp nhận Chúa trong những buổi truyền
giảng tại nhà thờ, nhưng tôi vẫn rất ấn tượng khi
đọc lời gọi mời thân hữu của tác giả như sau:
"Tôi muốn mời bạn đến ngôi nhà ấy. Mỗi
Chúa Nhật, hãy đến để gặp Đấng mà
tôi đã gặp Sau Hơn Ba Mươi Năm Nằm Ngủ, Đấng
đã thay đổi cuộc đời tôi, biến những nhọc nhằn
thành niềm vui, những bất an thành sự an
bình, đã yêu và sẽ
mãi yêu. Đấng ấy sẽ làm những điều
tương tự cho cuộc đời bạn như đã làm cho
tôi, đến để sống những ngày phước hạnh
trên đời" (Ngôi Nhà Trong Mơ Ước, p.
25). Một lời mời gọi thật tha thiết, thật nhẹ nhàng,
êm ái, nhưng đầy sức thuyết phục. Đúng
là nhà văn mời có khác. Tạ
ơn Chúa!
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết rằng:
"Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn
nỗi thành người". Mỗi người trong chúng ta ai
cũng có một quê hương để mà
yêu thương, để mà nhung nhớ, và rồi ai
trong chúng ta cũng có một cách
khác nhau để thể hiện lòng yêu
quê hương của mình. Tác giả BRHV
có cách yêu quê hương thật
độc đáo và chí lí
làm sao, đó là đem tình
yêu của Chúa Giê-su đến cho đồng
bào Việt Nam thân yêu: "Tôi
muốn nói với cháu tôi rằng
bây giờ, tôi đã chọn cách
yêu quê hương tôi khác hơn,
không bằng cách tranh đấu, biểu tình...
Tôi đi một con đường khác, con đường mà
Chúa Giê-su ngày xưa đã
đi... Tôi yêu dân tộc tôi
và mơ thấy một ngày gặp những người đồng hương
yêu dấu trên thiên đàng...
Tôi sẽ đi ra... nhưng không để hô
hào những khẩu hiệu chống đối, căm thù.
Tôi đi ra để nói cho đồng bào
tôi biết rằng "tình thương xóa bỏ hận
thù" và chỉ có tình
yêu thương vô bờ bến của Đức Chúa Trời
mới có thể dập tắt những căm thù và
đem chúng ta đến những bến bờ thật sự yêu thương,
hàn gắn lại những đổ vỡ của đời sống" (Ba Mươi Năm Viễn Xứ,
p. 180). Tôi ưng chịu cách yêu
quê hương nầy của tác giả. Có thể
nó đây là cách yêu
quê hương Việt Nam tốt nhất mà mỗi tín
hữu Tin Lành cần thực hiện để góp phần
làm cho dân tộc của chúng ta
ngày một hạnh phúc hơn, đất nước của
chúng ta ngày một tốt đẹp hơn như những quốc gia
Cơ Đốc giáo trên thế giới. Tôi
cũng đã, đang và sẽ tiếp tục học yêu
quê hương Việt Nam bằng cách như Lữ
Thành Kiến đã yêu.
Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật
cũng dạt dào trong BRHV. Có thi sĩ văn
nhân nào mà không
yêu thiên nhiên, cảnh vật, cỏ hoa
đâu?
Trăng là một trong những niềm yêu thương
miên man trong trái tim tác giả. Trăng
xuất hiện với tần suất khá nhiều trong BRHV.
Chính tác giả đã thú nhận:
"Trăng, theo tôi từ những ngày còn rất
bé, cái hình ảnh xưa cũ nhất về trăng
mà tôi còn nhớ, hình như
là một trong những ngày thanh bình rất
hiếm hoi ở quê ngoại, tôi nắm tay bà
ngoại nhỏ bé, ốm yếu đi trên con đường
làng, nhìn vầng trăng tròn treo lơ
lửng trên khóm tre cao vút, về sau tả
lại trong một truyện ngắn viết về quê hương được giải khuyến
khích, đứa bé rất bé lúc
ấy, mà đã có một cảm xúc
rất lạ lùng, là ước ao có một sợi
dây dài ném lên tận trăng,
cột vào một góc vầng trăng, kéo trăng
theo mình" (Nước Mỹ Và Trăng, p. 58, 59). Với
tác giả, trăng chẳng khác gì như người
bạn thân yêu: "Lạ lắm, khi nhìn trăng
tôi không cảm thấy buồn bã tuyệt vọng
nhiều nữa, tôi có cảm xúc như gần một
người bạn thân yêu, và trải rộng
lòng mình chia sẻ nỗi niềm" (Nước Mỹ
Và Trăng, p. 65). Trong một chỗ khác,
hãy nghe tác giả diễn tả nỗi... thèm
trăng của mình: "Tôi lại gần cửa sổ, mở bức
màn cửa lên, và nhìn thấy...
một vầng trăng. Cái mầu sáng lung linh của trăng
không hề giống như ánh sáng
đèn, từ trên cao tôi nhìn
lên cao hơn và thấy lại mình từ thuở ấu
thơ, thèm quăng một sợi dây tóm được
vầng trăng lôi xuống cùng mình" (Nước
Mỹ Và Trăng, p. 69).
Lữ Thành Kiến có óc quan
sát cảnh vật để tả một cách ấn tượng nhất, để lại
dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chỉ
vài nét chấm phá thôi với
cách dùng từ "có" lặp đi lặp lại nhiều
lần, như những dấu nhấn làm nổi bật lên cảnh vật,
tác giả đã lột tả được nét đặc trưng
nhất của một vùng cao nguyên nước Việt: "Thời gian
khi còn là một cậu học trò mộng ra
ngoài cửa lớp, tôi ở trong một thành
phố miền cao nguyên, nơi có gió,
có suối, có nắng vàng, có
mưa bụi, có mây trắng, có một thời
thanh xuân, thơ và nhạc, thỉnh thoảng
vào rừng cao su, đến ngồi bên bờ suối, bạn
thì đàn guitar, mình thì
hát Mưa Hồng, Nắng Thuỷ Tinh, Hạ Trắng" (Ngôi
Nhà Trong Mơ Ước, p. 19, 20).
Tôi thích những dòng văn tả cảnh của Lữ
Thành Kiến, vì nó nhẹ nhàng
mà ấn tượng, êm đềm mà sâu
sắc làm cho cảnh vật như hiện hữu ở trong đầu,
không, ở trong lòng mình vậy.
Đây là một lời mời gọi bạn đến thăm thủ
đô nước Mỹ của tác giả:
"tôi khuyên bạn nếu mà , bạn chỉ
có cơ hội đến thăm thủ đô một lần trong đời,
hãy đi vào khoảng từ đầu đến giữa
tháng 4, đó là cái thời
điểm giao hoà tuyệt đẹp của đất trời và
lòng người, khi mà hoa anh đào đồng
loạt nở rộ hai bên bờ sông Potomac, một
màu hồng phơn phớt của tuổi thanh xuân, mỏng manh
như những cánh bướm hay chuồn chuồn kim, nghiêng
nghiêng hờ hững trên mặt nước, chụp bao
nhiêu hình cũng không biết
chán" (Mùa Hè Bay Tới Biển, p. 140).
Tôi chưa được đến thủ đô Mỹ lần nào,
nhưng đọc đoạn văn ấy, tôi thấy như hình ảnh về
thủ đô của nước Mỹ đã hiện hữu trong tôi
rồi vậy.
Lữ Thành Kiến đôi lúc cũng triết
lý đến không ngờ, tôi khoái
những triết lý của tác giả: "Có những
điều người ta không thể chỉ nhìn thấy
bên ngoài. Người ta phải nhìn thấy một
cái gì đó bên trong.
Đúng hay sai không cần thiết. Cuộc sống
không phải chỉ có đúng và
sai, nó còn là một cái
gì khác nữa.
Đôi khi hãy nhìn bằng đôi mắt
cảm thông, dù không thể hiểu.
Đôi khi, có những điều mà
mình không thể hiểu được, nhất là những
vẻ đẹp.
Cũng không cần hiểu. Không phải tất cả mọi sự
trên đời này đều phải hiểu rõ. Nhiều
khi hiểu rồi thì nó lại không
còn đẹp nữa" (Chiều Trên Chesapeake Bay, p. 216).
Văn của Lữ Thành Kiến còn chứa đầy chất thơ
và nhạc. Hình như trong con người của
tác giả văn, thơ và nhạc đan quyện vào
nhau, khó tách rời ra được.
Xen kẽ giữa những truyện ngắn là những bài
thơ giàu cảm xúc của Lữ
Thành Kiến. "Những Ngày Tôi Với Mẹ"
là một bài thơ thật cảm động thể hiện
tình cảm sâu lắng của một đứa con dành
cho mẹ kính yêu, vì mẹ đã
dành trọn đời để chăm sóc và
nuôi nấng con, không quản gian lao, khó
nhọc, những lời sau đây như là những lời tự sự của
người con khi nghĩ về mẹ dấu yêu:
tôi
có lẽ sẽ buồn khi thấy lại
màu thời gian trên tóc mẹ
tàn phai
vết chân chim trên đồng khô cỏ
úa
mẹ vẫn bao la biển rộng sông dài
tôi có lẽ sẽ còn buồn hơn thế
vào một ngày không
còn mẹ bên đời
tôi sẽ mang những niềm riêng
sâu lắng
đi vào đời thương nhớ mẹ mà
thôi
(Những Ngày
Tôi Với Mẹ, p. 165)
Nhiều khi đứng trước cái bao la của đất trời, của
thiên nhiên cây cỏ, sông suối
khi vào thu, ta như thấy mình nhỏ bé
trước thinh không, ta như thấy mình
không là gì cả trước trời đất rộng minh
mông, trước cái vô định của bụi
mù. Những lúc như thế lặng lẽ đứng
nhìn và lắng đọng tâm tư suy gẫm về
mình, về người, về vạn vật là
thượng
sách, Lữ Thành Kiến đã làm
như thế:
lặng lẽ
cây đàn dựng bên vách
quạnh hiu
dòng suối chảy bên nhà
đất rộng
người xa không dám tới
thổi đám bụi mù
bay rất xa
có lẽ
tôi nên về lặng lẽ
thế thôi
đừng nói một câu gì
cả đất
và trời thu đó, sẽ
gọi buồn một thoáng
gió bay đi
(Lặng Lẽ, p. 235)
Đọc BRHV của Lữ Thành Kiến, tôi thấy được tấm
lòng của tác giả dành cho
Chúa, Đấng mà tác giả đang
tôn thờ thật sâu đậm hơn bất cứ điều gì.
Có thể nhận thấy cách rõ
ràng, trong hầu hết các truyện của
mình, hình ảnh về Chúa
Giê-su như bao trùm lên tất cả, như
chiếm hữu trọn cả tấm lòng tác giả. Đọc
các truyện "Ngôi Nhà Trong Mơ Ước", "Về
Mái Nhà Xưa", "Những Nẻo Đường Về Đâu",
"Tình Yêu Như Biển", "Yêu Người
Khôn Nguôi", "Người Đứng Trên Thế Giới",
người đọc rất cảm kích trước tình yêu
của tác giả dành cho Chúa.
Có thể nói rằng với tác giả,
Chúa là tất cả, Chúa là
quý báu nhất trong cuộc đời, không
có gì hơn Chúa hết. Vì
chính Ngài đã chinh phục trọn vẹn
trái tim của tác giả bằng tình
yêu lớn lao của Ngài: "Tôi đã
gặp Chúa Giê-su trong thời gian đó...
cái sợi dây tình yêu
êm ái ấy vây phủ mình bao giờ
không hay. Người ta bị thuyết phục không bằng
lý luận, mà bằng tình yêu.
Ngày tôi cúi đầu cầu nguyện mời
Ngài bước vào để làm chủ cuộc đời
mình là một buổi sáng mùa
xuân trên bãi biển Nha Trang
sóng vỗ miên man như câu ru êm
của mẹ dịu dàng. Ngày đó tôi
quăng bao thuốc lá Mai vào trong bếp,
và không bao giờ cầm lại điếu thuốc trong cuộc
đời. Tôi trở thành một người khác"
(Nước Mỹ Và Trăng, p. 67). Dứt khoát với lối sống
cũ không mấy đẹp đẽ trước đó, tác giả
nguyện một lòng dâng cuộc đời mình để
theo Chúa và phục vụ Ngài,
làm một con chiên trong nhà
Chúa, rồi làm một tôi tớ để phục vụ
Ngài, dù trong chức vụ một người chăn bầy
chiên của Chúa, tác giả gặp biết bao
lao nhọc, nhiều khi tưởng chừng "nửa chừng xuân, thoắt
gãy cành thiên hương" (Kiều), nhưng
rồi, nhờ ơn và sức của Chúa, bởi tình
yêu thương của Ngài còn thương
xót, lòng nhơn từ của Ngài
còn rộng mở, nên tác giả cứ tiếp tục
bước tới, bước tới trong đức tin hầu việc Ngài,
chăn bầy chiên của Ngài bằng cả
tâm hồn mình, bằng tất cả những gì
Chúa ban cho mình. Là một người hầu
việc Chúa, tôi đồng cảm với tác giả về
những xúc cảm được tác giả thổ lộ trong BRHV.
Hãy nghe tác giả tâm sự: "Nhiều năm
qua, trong chức vụ buồn nhiều hơn vui. Vui vì đi
tìm được những con chiên lạc trở về,
nuôi chúng, chăm sóc chúng,
nhìn chúng lớn lên, sinh nở con
cái. Buồn vì những con chiên bướng
bỉnh, ngang nghịch, cho ăn không thèm ăn
mà còn quay lại cắn... Vui vì những
việc làm được cho Chúa, buồn vì vẫn
còn quá nhiều điều chưa làm được cho
Chúa" (Ngôi Nhà Trong Mơ Ước, p. 23). Ở
một chỗ khác, tác giả bộc bạch tấm
lòng một cách chân tình:
"Tao chịu đựng về phần dâng hiến của chính
mình, chịu đựng thêm những buổi họp căng thẳng,
những lời nói xúc phạm, chịu đựng thêm
tình trạng tín hữu... bỏ cuộc. Những
ngày đó, tao chỉ muốn đi đâu
đó, biến mất một thời gian, khi trở về, thấy căn
nhà thờ đã hoàn tất, như một
phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ
nào giống như thế xảy ra. Phép lạ Chúa
làm cho tao trong thời gian ấy là một tấm
lòng kiên trì, bền bỉ, chịu đựng, chảy
nước mắt trong phòng riêng, nhưng cười vui vẻ
trên bục giảng" (Chúc Mừng Năm Mới, p. 91, 92).
Người hầu việc Chúa, theo tôi, cũng cần
có một chút gì đó
hài hước, dí dõm để thêm
niềm vui mà hầu việc Ngài. Đọc BRHV, ta sẽ
phát hiện ra Lữ Thành Kiến có điều
đó, mà có một cách thật dễ
thương nữa là đằng khác. Không dễ
thương sao được khi đọc những dòng nầy: "quyển
sách mỏng Ai Đã Vẽ Mùa Thu
tôi viết cách đây... 6 năm, in 1000 cuốn
và đã... cho gần hết rồi" (Em ơi Mùa
Thu, p. 10). Ai bảo nhà văn, nhà thơ
không hào hiệp, không... giàu
có nào? Đã dành
thì giờ để viết cho người ta đọc là một kỳ
công rồi, viết xong rồi in cho đẹp, in xong, đáng
lý ra phải bán để lấy tiền chi dùng
hầu có sức mà tái... sản xuất ra văn
chương nữa chứ. Đằng nầy, không... thèm
bán, sẵn sàng mở rộng lòng
hào hiệp, đem... cho không biếu không
hết luôn. Thật đáng nể. Ở một chỗ khác:
"Đầu những năm 1990, tôi và gia đình
được gọi đi phỏng vấn. Sau đó, chúng
tôi vào Sài Gòn để chuẩn
bị... bay đi... Những ngày cuối cùng lang thang,
vào nhà sách Khai Trí
cũ trên đường Lê Lợi, nhìn
thấy tập thơ bé nhỏ của mình nằm cạnh những tập
thơ của những thi sĩ... lớn, lòng tôi cảm động.
Tôi mua một tập, tặng cho... mình" (Nước Mỹ
Và Trăng, p. 68). Lại hào hiệp nữa, bỏ tiền ra
mua chính thơ của mình viết ra để tặng cho
chính... mình. Có ai chơi đẹp như
các văn nhân, thi sĩ đâu? Chơi đẹp đến
thế là hết cỡ. Thật đáng phục.
Nhà văn Nga Marxim Gooky nói: "Văn học
là nhân học". Người Việt Nam ta nói:
"Văn tức là người". Quả vậy, đọc BRHV của Mục Sư Lữ
Thành Kiến, ta như bắt gặp được chính con người
của Mục Sư trong đó. Một con người có
trái tim đa cảm, một con người có tấm
lòng trắc ẩn sâu sắc, đáng
quý. Văn của Lữ Thành Kiến mềm mại nhưng
không uỷ mị, nhẹ nhàng nhưng không mềm
yếu. Đọc BRHV, ta thấy như tác giả đang trải lòng
mình ra trên trang giấy, trước mặt Chúa
và độc giả. Rất chân thật nhưng không
trần trụi. Rất gần gũi nhưng không quá
đà. Đọc BRHV, ta thấy tác giả là một
con người sống rất gần với Chúa, rất mực yêu mến
Chúa, yêu mến bầy chiên của
Chúa bằng một tình yêu sâu
đậm, một "tình yêu dầm thấm ở trong
lòng hơn là phát tiết ra
ngoài" (Ngôi Nhà Trong Mơ Ước, p. 24).
Trong truyện "Người Đứng Trên Thế Giới", tác giả
có viết: "Có lẽ vì có biệt
tài cãi cọ từ nhỏ mà Thanh Mục
Sư ngày ấy đi học Luật, trở thành một
Luật sư thay vì Mục Sư (tiếc thay), và Kiến thi
sĩ, văn sĩ, ca sĩ, tà tà, cà nhỗng
ngày ấy bây giờ lại hóa ra rất serious,
đi học Thần Học và làm... Mục Sư (đáng
tiếc thay)" (Người Đứng Trên Thế Giới, p. 218).
Không đáng tiếc thay đâu Kiến thi sĩ ạ,
mà bèn là ĐÁNG MỪNG THAY
đó, vì nếu không như thế thì
bây giờ bạn đọc nói chung, bạn đọc Cơ đốc,
nói riêng, đâu có được đọc
những truyện ngắn, những bài thơ nhẹ nhàng,
đáng yêu từ một Mục Sư - Văn Sĩ - Thi Sĩ dễ thương
sáng tác như thế nầy đâu, ấy
là chưa kể đến Nhạc Sĩ nữa đó phải
không Kiến Mục Sư - Văn Sĩ - Thi Sĩ - Nhạc Sĩ?
Trong Kinh Thánh có đề cập đến nhiều
nhà thơ , nhà văn nổi tiếng, tài danh
như Đa-vít, như Sa-lô-môn là
"Người nói ba ngàn câu châm
ngôn, và làm một ngàn năm
bài thơ" (I Các vua 4:32), như "E-xơ-ra, thầy tế
lễ và văn sĩ, thạo biết luật pháp của Đức
Chúa trên trời" (E-xơ-ra 7:12)... Họ đã
để lại những bài thơ, bài văn tuyệt hay,
có thần cảm từ Chúa để ngày nay
chúng ta học hỏi, suy gẫm và làm theo
hầu sống đẹp lòng Chúa. Chúa cũng muốn
lưỡi chúng ta "như ngòi viết của văn sĩ
có tài" (Thi-thiên 45:1) để ca ngợi
Chúa, để tôn cao Chúa. Tôi
mong ước Hội Thánh của Chúa ngày
càng có được nhiều những nhà văn,
nhà thơ như Mục Sư Lữ Thành Kiến thì
quý biết bao.
Trong cảm nhận của riêng tôi,
tôi tin rằng trong tương lai, Chúa sẽ cho Mục Sư -
Văn Sĩ - Thi Sĩ - Nhạc Sĩ Lữ Thành Kiến còn
có nhiều sáng tác chất lượng cao hơn
nữa gởi đến bạn đọc xa gần.
Hãy đợi đấy mà xem!
Quảng Nam, ngày 03. 3. 2009.
Đuốc
Thiêng 100
01
Thiên
đàng
- ĐTPÂ
02
Hát
nói:
Ngày phán xét
- Trần Nguyên Lam Bửu
03
Chúa
Giê-xu chịu thương khó
- Quyền Linh
04
"Các
ngươi phải yêu nhau"
- H4
05
Thơ: Cảm tạ
Chúa Giê-xu - Linh Quyền
06
Áp-ra-ham
theo lời Chúa gọi
- Mục sư Trần Hữu Thành
07
Tiểu sử
Thánh ca
- Fanyia
08
Thơ: Lời
Chúa
- Đức Huy
09
Đời chẳng
ai ngờ
- Vinh Bằng
10
Thơ:
Hè về - Đức Huy
11 Đọc "Biển rộng
hai vai" của Lữ Thành Kiến
- Nguyễn Đình Bùi Thị
12
Quanh ta
ngậm
ngùi - Bà Lê Văn Bắc
13
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
14
Xứ Do
Thái khi
Chúa Jêsus khởi sự công tác
- Mai Đào
15
Đuốc
Thiêng - Người bạn đồng hành đáng
yêu - Bình Tú Ngọc
16
Vài
nét về Hội Đồng Giáo Hạt Pháp lần thứ
21
- TĐTN Trương Đức Huy
17
Tin Tức
- Vinh Bằng