Đặc san báo Đuốc Thiêng - Tiếng nói của Hội thánh Tin lành Việt Nam Paris (Pháp)

Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ

Đuốc Thiêng 100, tháng 04 & 06 năm 2009


Nguyên tác : sách "Les croisades vues par les arabes" - Thập tự dưới mắt người Ả rạp. Nhà Xuất bản: JC Lattès, Paris, 1983.
Tác giả : Amin Maalouf.
Trích dịch : Lạc Hồ.               

(coi Đuốc Thiêng từ số 3)

Chương 51/6: Mưu loạn này khác ở Damas


Giết cố vấn Mazdaghani.

Như đã nói trong chương 5, thành Damas nay có chủ tướng là Bouri, bên cạnh Bouri có cố vấn tối cao là Mazdaghani, nhưng vị cố vấn này ủng hộ giáo phái Assassins, lại ngầm liên lạc với quân Franj.

Một ngày tháng 9 năm 1129, theo thông lệ hàng ngày, cố vấn tối cao  Mazdaghani đến nhóm hội nghị chỉ đạo ở lâu đài "Hoa Hồng". Sử gia Qalanissi chép "Hội nghị thông qua nhiều vấn đề, rồi bế mạc. Bouri, con của Toghtekin, giữ chức chủ tỉnh Damas lúc này từ khi Toghtekin chết, tuyên bố bế mạc, mọi người đứng lên ra về.Theo thông lệ, Mazdaghani đứng lên sau hết. Bouri ra dấu cho một bộ hạ, anh này chém Mazdaghani nhiều nhát kiếm, chặt đầu y, chặt thân y làm hai mảnh, đem ra bêu ở cổng thành, để cho mọi người đều thấy số phận của kẻ chuyên lừa dối".

Chỉ sau vài phút, tin cố vấn tối cao bị giết lan khắp các souk (chợ) ở Damas, và ngay lập tức, bắt đầu cuộc rượt bắt đồng bọn của Mazdaghani. Một đám đông thiệt đông ùa vào khắp mọi phố, vung gươm vung kiếm, giết tất cả mọi "batini", luôn cả gia đình, họ hàng, bạn hữu. Tất cả những ai mà nghi là có liên lạc này khác với "batini", đều bị truy nã trong khắp thành phố, bị cắt cổ không thương hại. Các lãnh tụ batini bị đóng đinh trên tường thành, để cho dân chúng thấy.

Rõ ràng là dân thành Damas, kể từ Bouri, đã quá chán ngán chuyện bọn Assassins đô hộ thành phố. Dẹp được bọn người áp bức đã đành, mà còn thoát được một tai nạn kinh khủng hơn nữa, theo sử gia Athir, "Mazdaghani đã viết thơ cho quân Franj, đề nghị giao thành Damas cho họ, đổi lại họ sẽ giao thành Tyr cho y.Thoả thuận đã xong rồi,hơn nữa, còn ấn định ngày, là một ngày thứ sáu". Tại sao ngày thứ sáu? Ai cũng biết ngày thứ sáu là ngày dân hôi-giáo dành cho việc thờ phượng, cũng như dân Do thái dành ngày thứ bẩy, tín hữu cơ đốc dành ngày chúa nhựt. Khi mọi người đang ở trong đền thờ, cả hoàng gia, cả quan chức, cả nhân dân, thì bọn Assassins võ trang sẽ đến cổng đền, ngăn không cho ai ra; quân Franj sẽ kín đáo kéo đến cổng thành, bọn Assassins sẽ mở cổng cho họ. May mắn thay là vài ngày trước ngày đã ấn định, Bouri hay tin, liền triệt hạ Mazdaghani, và luôn cả đồng bọn.

Âm mưu nói trên đây có thiệt hay không? Có  người nghi ngờ  như thế, nhưng sẽ hết, khi thấy những batini sống sót chạy đến với vua Baudouin 2, xin tị nạn, và vua Baudouin được họ trao cho thành Banias, một pháo đài kiên cố ở chân núi Hermon, kiểm soát sự giao thông giữa Jerusalem và Damas. Hơn nữa, chỉ vài tuần sau, Damas bị một đoàn quân Franj hùng mạnh tới bao vây. Đoàn quân gồm gần 10 ngàn bộ binh, đến từ Palestine, từ Antioche, từ Edesse, từ Tripoli, lại có cả hàng trăm quân Franj từ Tây phương mới tới, họ hô lớn là nhứt quyết chiếm cho được Damas. Trong đoàn quân này, có bọn cuồng tín nhứt là bọn hiệp sĩ Templiers, mới thành lập ở Palestine 10 năm trước đây.
 
Giải vây Damas.

Bouri không có đủ quân sĩ đễ giữ thành. Y bèn cầu cứu với mấy bọn võ trang ở gần, là dân du mục người turc, và những bộ lạc người Ả-rập, hứa sẽ thưởng tiền nhiều, nếu giúp mình đẩy lui được quân xâm lăng. Một ngày tháng 11, Bouri được tin là hàng ngàn quân Franj kéo đi cướp phá đồng bằng Ghouta. Bouri đem toàn lực quân binh ra bao vây quân Franj. Quân Franj tan nát vì bị đánh bất ngờ, nhiều kỵ sĩ bỏ chạy, không kịp lên ngựa. Sử gia Qalanissi chép "chiều hôm ấy, quân Turc và Arabe trở về thành Damas hân hoan vì chiến thắng, mang theo đầy chiến-lợi-phẩm. Dân chúng cũng vui mừng, ai nấy phấn khởi, và quyết định đến đánh quân địch ngay nơi chúng đóng trại. Hôm sau, sáng sớm, đoàn kỵ binh Damas xông đến, thấy nhiều đám khói bốc lên, họ tưởng là quân Franj ở đó ; nhưng đến gần, họ thấy quân Franj đã rút đi, khói do họ đốt lều trại vì không còn ngựa để chở".

Baudouin thất bại lần này, nhưng không nản lòng, lại kéo quân tới vây Damas, nhưng lần này bị trời mưa, mưa liên miên nhiều ngày trong cả vùng, trại quân Franj thành ra một biển nước và bùn, làm chúng kẹt dính. Vua Jerusalem đành rầu rĩ kéo quân về, và quyết định là thôi không dòm ngó gì nữa tới Damas. Bouri, lúc đầu ta tưởng là vô dụng và hèn nhát, ngờ đâu lại đã cứu Damas khỏi hai nạn lớn, là quân Franj và quân Assassins.

Nhưng Bouri không tận diệt được hết mọi kẻ thù. Một ngày kia, có hai người nam tới Damas, ăn bận theo kiểu turc, nói là kiếm việc làm. Bouri thâu nhận 2 người này làm cận vệ. Một buổi sáng tháng 5 năm 1131, Bouri từ tư dinh đến lâu đài, bị 2 ngưới ấy tấn công, đâm dao vào bụng. Họ bị bắt ngay, và trước khi bị xử tử, họ khai họ là thành viên Assassins, do lãnh-tụ họ ở Alamout sai đến trả thù cho đồng bọn đã bị Bouri giết. Có các danh sư đến chữa cho Bouri khỏi chết ngay lúc đó, nhưng sức khoẻ Bouri tàn tạ lần lần, rồi chết vào tháng 6 năm 1132, sau 13 tháng quằn quại. Lại một lần nữa, giáo phái Assassins trả được thù.

Tướng Zinki xuất hiện.

Đáng lẽ phải kể Bouri là đứng đầu trong việc giải thoát thế giới Ả-rập khỏi ách quân Franj, nhưng cùng thời kỳ này,lại xuất hiện một anh hùng khác, tên là Imadeddin Zinki, vua mới của hai thành Alep và Mossoul, mà sử gia Athir kêu là "nhân vật Trời ban cho dân hồi giáo".

Zinki từ  đâu tới? Zinki là tướng chỉ huy hải cảng Bassora, ở cuối vịnh Bassora, biển Địa trung. Đầu năm 1128, có cuộc nổi loạn ở Bagdad, viên sultan ở Bagdad cầu cứu với Zinki. Zinki kéo quân đến dẹp tan bọn nổi loạn, và được sultan thưởng cho làm vua 2 thành Alep và Mossoul.

Zinki là người thế nào? Zinki khác hẳn đa số các lãnh-tụ Ả-rập thời đó.Trước Zinki, các tướng người turc đem quân đến Syrie, quân đội gồm những kẻ chỉ lo cướp của, lo lãnh lương rồi trở về xứ, khả năng thất thường, mới thắng đấy, lại thua ngay đấy. Quân lính được mộ đầu năm, cuối năm cho giải ngũ, năm sau lại tuyển mộ nếu cần. Zinki thì khác. Suôt trong 18 năm, y ngủ trên rơm để khỏi dính bùn, liên kết với nơi này, đánh bại nơi kia, chẳng khi nào tính chuyện nghỉ ngơi dài dài trong những lâu đài thuộc quyền mình. Khi đến một thành nào, y chẳng vào ngủ trong các lâu đài của thành ấy, mà dựng lều, ngủ ở ngoài cổng thành. Đoàn hầu cận của y không gồm những kẻ nịnh bợ và vô dụng, nhưng gồm những cố vấn đầy kinh nghiệm, và y chịu nghe lời họ. Y có mạng lưới tình báo rộng rãi,nên thường xuyên có tin tức về mọi hoạt đông hoặc âm mưu chinh trị ở Bagdad, Ispahan, Damas, Antioche, Jerusalem, y biết hết. Về chuyện thành phần của lực lượng quân Ả-rập chống quân Franj, trước đây thường do nhiều tướng địa phương gom nhau lại, ba hồi xích mích nhau, phản bội nhau. Với Zinki, tình trạng này chấm dứt, kỷ luật rất chặt chẽ, ai sai phạm một chút là bị phạt liền. Sử gia Kamaleddin chép "quân của Zinki tiến bước giống như bước giữa hai sợi giây thừng, ngăn không cho dẫm lên ruộng lúa". Và sử gia Athir kể chuyện "Zinki ban cho một tướng được chỉ huy một thành. Khi đến nhậm chức, tướng này sắp đặt cho mình ở trong nhà một thương gia người Do thái. Thương gia này đến khiếu nại với Zinki. Zinki chỉ lừ mắt một cái, tướng kia lập tức rút ra khỏi nhà thương gia".

Khi đến nhận thành Alep, Zinki tỏ ra rất khôn, có 3 hành động tượng trưng đặc biệt. Một là cưới con gái vua Redman, bà này đã từng là vợ của Ighazi rồi Balak. Hai là đem hài cốt của cha mình đến táng ở Alep, để tỏ ra mình sống chết với thành. Ba là trưng ra lịnh bổ nhiệm mình, do sultan ký, chứng tỏ mình thiệt có quyền hành trong cả vùng.

Lủng củng trong vòng quân Franj.

Nhắc lại lúc này vua ở Jerusalem là Baudouin 2, vua này có con gái tên là Alix,gả cho Bohemond 2, chủ tỉnh Antioche. Bohemond 2 đem quân đi đánh miền bắc, chết trong một trận phục kích của quân địch, bị tướng Ghazi chặt đầu gởi về Bagdad.
Tin này đưa về Antioche, bà  Alix lên nắm quyền hành, được sự ủng hộ của các dân trong thành gốc arménie, grec, syrie, bèn viết thơ cho Zinki, yêu cầu liên kết với mình, chống lại chính cha mình ở Jerusalem. Zinki được tin không ngờ này, chẳng hết sững sờ. Thái độ này kể ra thật kỳ quặc, nhưng nói lên tâm trạng một lớp ngưòi Franj thế hệ mới, chẳng suy nghĩ như những người tiền phong thánh chiến đợt đầu. Bà Alix có mẹ người arménie, chưa khi nào thấy Âu châu, chắc là suy nghĩ như người đông phương.

Vua Baudouin ở Jerusalem được tin động trời này, bèn kéo quân đi Antioche. Đến gần Antioche, y gặp một kỵ sĩ trang bị thật đẹp, cưỡi một con ngựa trắng cũng đẹp vô cùng, có yên vàng, cương bạc. Hỏi ra thì đây là quà tặng của Alix gởi đi cho Zinki, kèm theo thơ yêu cầu Zinki tới giúp, xin hứa là thần phục Zinki. Lẽ dĩ nhiên là Baudouin 2 sai treo cổ sứ giả, rồi chiếm lại Antioche không mấy khó khăn, đem đày Alix ra cảng Lattaquieh.

Chẳng lâu sau đó, Baudouin 2 chết, vào tháng 8 năm 1131. Vua Bausouin không có con trai, nên người nối ngôi là con rể, tên là Foulque d’Anjou. Anh này là chồng của bà Mélisande, chị của Alix, và mới từ Anjou (Pháp) tới đông phương.

Sử gia Qalanissi nhận xét "Dưới thời trị vì của vị vua thứ ba này ở Jerusalem, chuyện" bất hoà trong vòng quân Franj "ngày càng thêm nặng". Ngay từ khi mới lên ngôi, Foulque đã phải đối phó với Alix, bà này lại nổi loạn, Foulque phải khó nhọc mới dẹp được. Rồi đến chuyện bà Mélisande ngoại tình vớ một hiệp sĩ trẻ, tên là Hugues du Puiset. Chuyện vỡ lở, Hughes phải đi lánh nạn ở thành Ascalon, được nguời Egypte tiếp đón, lại còn trao cho một đoàn kỵ binh đi chiếm cảng Jaffa của quân Franj, nhưng chỉ vài tuần sau, quân Franj chiếm lại.

Tháng 12 năm 1132, trong khi vua Foulque lo chiếm lại Jaffa, thì lại mất pháo đài Banias, mà ba năm trước đây bọn Assassins trao cho Baudouin 2, mất về tay Ismael, con của Bouri, chủ thành mới của Damas. Tưởng rằng các lãnh-tụ Ả -rập sẽ lợi dụng lúc quân Franj lủng củng với nhau mà phát triển thắng lợi này; nhưng không phải, họ dừng lại đấy, vì họ cũng lủng củng với nhau không kém. Zinki thì đang mắc kéo quân về Bagdad dẹp loạn một lần nữa, như đã làm 5 năm trước đây. Lần trước, y thắng, nhưng lần này, khi kéo quân đến gần thành Tikrit, trên sông Tigre, ở phía bắc Bagdad, y thua tan nát, thiếu điều bị bắt. Y thoát chết, nhờ chủ tỉnh Tikrit, một tướng trẻ gốc dân Kurde, tên là Ayyoub. Ayyoub cứu Zinki, đưa qua sông trở lại Mossoul mau mau; Zinki nhớ ơn, dành tình thân ái cho gia đình này, chuyện này có ảnh hưởng nhiều chục năm sau đến đời sống của một người con của Ayyoub, tên là Saladdin, chúng ta hãy nhớ tên anh Saladdin này, vì sau này nó sẽ làm đảo lộn thế giới quân Franj. 



Đuốc Thiêng 100

01 Thiên đàng - ĐTPÂ
02 Hát nói: Ngày phán xét - Trần Nguyên Lam Bửu
03 Chúa Giê-xu chịu thương khó - Quyền Linh
04 "Các ngươi phải yêu nhau" - H4
05 Thơ: Cảm tạ Chúa Giê-xu - Linh Quyền
06 Áp-ra-ham theo lời Chúa gọi - Mục sư Trần Hữu Thành
07 Tiểu sử Thánh ca - Fanyia
08 Thơ: Lời Chúa - Đức Huy
09 Đời chẳng ai ngờ - Vinh Bằng
10 Thơ: Hè về - Đức Huy
11 Đọc "Biển rộng hai vai" của Lữ Thành Kiến - Nguyễn Đình Bùi Thị
12 Quanh ta ngậm ngùi - Bà Lê Văn Bắc
13 Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
14 Xứ Do Thái khi Chúa Jêsus khởi sự công tác - Mai Đào
15 Đuốc Thiêng - Người bạn đồng hành đáng yêu - Bình Tú Ngọc
16 Vài nét về Hội Đồng Giáo Hạt Pháp lần thứ 21 - TĐTN Trương Đức Huy
17 Tin Tức - Vinh Bằng