Đời chẳng
ai ngờ - Vinh Bằng
Đuốc Thiêng
100,
tháng 04 & 06 năm 2009
(Xin xem từ Đuốc
Thiêng 74)
Công cuộc truyền giáo, mở mang vương quốc
Chúa qua lãnh vực xã hội thăm viếng,
giúp đỡ nhu cầu vật chất lẫn tâm linh cho người tị
nạn đến Pháp trong những ngày đầu của họ
là nhịp cầu tiếp cận kết quả tốt đẹp. Tờ báo
Thông Công góp phần thêm mối
dây thân ái cùng đem lời
Chúa nuôi dưỡng tâm linh cho nhiều người
tản mác ở các trại tị nạn, hay một số người
có nhà riêng bước vào giai
đoạn mưu sinh, khiến an ủi họ những lúc cảm thấy trống vắng
bơ vơ nơi đất khách quê người, chỉ dẫn họ biết
được đâu là con đường của sự sống vĩnh cửu cho đời
sống. Cộng thêm với nhiều chuyến đi thăm viếng chứng đạo, tổ
chức các buổi truyền giảng nhỏ tại một số trại tị nạn
vùng Paris hoặc ở các tỉnh xa, cũng đưa
nhiều người đến sự nhận biết Chúa và tiếp nhận
Ngài. Tại Paris, số tín hữu ngày
càng tăng lên. Từ con số vài chục
người, các buổi nhóm thờ phượng có khi
vượt lên con số 200 hay hơn nữa. Vấn đề nuôi dưỡng
đức tin con cái Chúa lớn lên
«như cây trồng gần giòng nước»
đâm rễ vững nền, «tầm thước vóc
giạc» khả dĩ đối đầu với cuộc sống mới nhiều thách
thức phải là vấn đề hàng đầu của Hội
thánh. Đó là lý do Hội
thánh khởi sự nghĩ đến những Hội đồng Bồi linh với qui
mô lớn hằng năm tăng cường sinh lực thuộc linh cho con
cái Chúa. Mỗi Hội Đồng kéo
dài trong hai tuần lễ. Chủ yếu là hai cuối tuần
(week-end), từ Thứ Sáu cho đến Chúa nhựt. Những
ngày không có các buổi giảng
bồi linh là cơ hội cho diễn giả đi thăm các gia
đình tín hữu sống rãi rác ở
các tỉnh nước Pháp hoặc ở các nước như
Đức, Hòa Lan, Thụy sĩ, Đan Mạch. Nhờ các cuộc
thăm viếng mục vụ nầy mà lần hồi hình
thành được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
tại Pháp và Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam Âu Châu như hiện
có ngày nay.
Các con cái Chúa từ Việt Nam đến tị
nạn tại các nước Âu Châu lúc
đầu rất ít, lưa thưa đây đó
vài gia đình, chưa có các
nhóm tín hữu hay Hội thánh. Họ khao
khát những buổi thờ phượng nghe giảng lời Chúa
«như con nai cái thèm khát
khe nước» nên khi hay tin có Hội Đồng
Bồi Linh tại Pháp họ hăm hở khăn gói
lên đường không quản ngại đường xa với thời gian
dài suốt 2 tuần lễ. Đa số đi bằng xe lửa, bởi cuộc sống chưa
ổn định, chưa có bằng lái, nói
gì có xe hơi. Tôi nhớ có
hằng chục anh em đi xe lửa từ miền Trung nước Đức tới Paris, do mới đi
lần đầu, không rành về chỗ ngồi, tưởng như ở Việt
Nam, cứ lên toa xe gặp ghế trống là ngồi,
hàn huyên vui vẻ. Xe chạy qua nhiều
thành phố, băng qua nhiều cánh đồng
lúa mì uốn lượn phất phơ theo gió trưa
như thảm vàng xanh bát ngát tận
chân trời. Lại có những nơi vàng rực
bông cải xe lướt nhanh trông tợ tấm lụa mềm trải
dài thật đẹp hoặc những vùng bao la hoa hướng
dương sừng sững hướng theo mặt trời sắc màu rực rỡ
ngút ngàn vui mắt làm sao! Nơi
khác, nào là cánh đồng bắp,
nào là cánh đồng củ cải đường,
nào là khoai tây cao thấp nhấp
nhô xanh um trang điểm đất đai thành những
vùng phì nhiêu lạ lùng đến
phải ngạc nhiên. Thỉnh thoảng còn thấy những đống
củ cải đường hay khoai tây chất cao như ụ đất gần
bên đường. Các cánh đồng ở Đức hay ở
Pháp và cả Âu Châu
không ngập nước như ở Việt Nam. Người ta thường
xuyên phải tưới nước cho các vụ mùa
trồng trọt. Những chiếc xe với giàn phun nước tưới hoa
màu mịt mù, vần vũ khác nào
mưa phùn đổ xuống. Đây đó,
vài cỗ xe gặt lúa hay đào khoai, hoặc
thu hoạch củ cải đường di chuyển ngay hàng thẳng lối trong
lặng lẽ cô đơn. Nơi khác, những cuộn rơm cuốn
tròn như hình bánh xe to tướng nằm
rãi rác trên cánh đồng. Bầy
bò, bầy cừu, có cả ngựa nữa đứng gặm cỏ như
không màng gì với những chuyến xe lửa
hay xe hơi qua lại. Anh em mãi miết ngồi nhìn
không kịp mắt. Thình lình
cánh cửa mở ầm, người soát vé hỏi
giấy. Họ đòi mỗi người phải trả tiền phạt vì mua
vé hạng hai lại ngồi ở toa hạng nhất. Nói
gì cũng không được, trình
bày gì họ cũng không tin,
đành phải cắn răng móc tiền ra. Bài
học khá đắc giá. Người soát
vé không chút thương cảm dù
biết người ta không biết. Nỗi buồn cho anh em lần đầu lấy xe
lửa đến Pháp. Một kỷ niệm đi Hội Đồng Bồi Linh
khó quên.
Ở Dordrecht (Hòa Lan), có ông
Lâm Khắc Phụng và đứa con trai dắt nhau
lên xe lửa qua Paris dự Hội Đồng Bồi Linh. Lần nào
cũng đi, năm nào cũng đi. Ơn phước Chúa
tràn ngập tâm hồn, niềm vui sướng bừng
lên trên chuyến về sau khi được cùng anh
em thờ phượng và nghe lời Chúa. Thế nhưng lần
nào cũng như lần nào, chuyến xe lửa lại
không ngừng ở ga Dordrecht, song chạy thẳng đến ga Rotterdam,
cách xa thêm hơn 20 cây số mới ngừng cho
hành khách xuống. Từ đó, ai đi
Dordrecht phải đón xe lửa trở ngược lại, mất thêm
cả tiếng đồng hồ nữa mới về tới nhà. Trời về khuya, lại sợ
mất thì giờ quay lại. Cho nên có lần
khi tới ga Dordrecht, dù xe không dừng
lại, song vận tốc hạ xuống chầm chậm như phòng ngừa bất trắc
có thể xảy ra. Hai cha con trong đêm tối thấy vậy
hè nhau mở cửa nhảy xuống đường rầy, rồi leo lên
đi bộ về nhà. Thật là một hành động
gan dạ, nhưng không kém liều lĩnh. May
mà bình an vô sự.
Từ Đan Mạch, cách xa Paris hằng ngàn
cây số, các anh em thanh niên người sắc
tộc Stiêng, đa số vốn là những cô nhi
Tin Lành khi còn ở Việt Nam, yêu mến
Chúa nhiệt thành lắm. Đầu năm 1975, Hơn 100 anh
em được một nhà báo cổ động cho đi du lịch Hoa
kỳ. Khi chuyến bay trên đường về tới Đan Mạch thì
biến cố 30-4-1975 xảy ra ở Việt Nam. Anh em được ở lại đó.
Tất cả đều độc thân. Sống thành cộng đồng kề cận
bên nhau, thương yêu đùm bọc nhau như
anh em một nhà, như con một Cha. Hằng tuần, anh em
cùng nhóm nhau lại học Kinh thánh,
và thờ phượng Chúa. Một Hội thánh được
thành hình tại Slagelse (Đan Mạch) từ
đó, nhờ vậy mà anh em có mục
đích sống giữa những ngày tuổi trẻ nơi đất
khách quê người. Mỗi lần được tin có
Hội Đồng Bồi Linh ở Paris, anh em kẻ lấy xe lửa, người lái
xe hơi hăng hái tới dự. Ngôi nhà
chúng tôi trở thành trung tâm
đón rước đầy ắp mọi người, nói cười vui vẻ hồn
nhiên.
Hội Đồng Bồi Linh lần thứ I được tổ chức tại nhà thờ Tin
Lành 10 rue Danton, 94270 Kremlin Bicêtre từ
ngày 16-25/10/1981, với diễn giả là Mục sư Nguyễn
Anh Tài, quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành
Việt Nam tại Lancaster (Hoa kỳ), đương kiêm Nghị
viên của Ban Chấp Hành Giáo Hạt Bắc Mỹ.
Anh em từ Toulouse, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Tây Đức
cùng với con cái Chúa tại Paris đến
tham dự rất đông. Qua các buổi giảng
sáng, chiều và tối ngày 16, 17, 18
và 23, 24, 25/10/1981 Chúa ban ơn phước rất nhiều
cho Hội Đồng. Riêng chiều Chúa nhựt 25-10-1981
có buổi truyền giảng cho đồng hương Việt Nam. Nhà
thờ đông nghẹt không còn chỗ ngồi.
Nhân dịp Hội Đồng nầy, ngày 19-22/10/1981, Mục sư
Nguyễn Anh Tài có cơ hội đến giảng cho Hội
Thánh Toulouse, Chúa cho có 3 người
tiếp nhận Chúa. Ngày 27-28/10/1981, diễn giả
còn được tôi lái xe hướng dẫn đi thăm
một vài gia đình bên Bỉ và
Thụy sĩ. Chúa cho các cuộc gặp gỡ thông
công rất vui vẻ, phước hạnh. Tổng kết Hội Đồng Bồi Linh lần
thứ I, theo Ban Biên Tập báo Thông
Công số 40 ghi lại: «Hội Thánh Paris đạt
được thành công rực rỡ về thành quả
tinh thần lẫn vật chất. Hội Đồng đã đem lại nguồn suối
mát xanh tươi cho bao vùng đất từ lâu
khô hạn, kết chặt mối dây liên lạc giữa
vòng tín hữu và báo hiệu
cơn phục hưng lớn cho nhà Chúa tại Paris. Với sự
ủng hộ tài chánh dồi dào của
toàn thể con cái Chúa, quỹ tổ chức Hội
Đồng sau khi chi phí vẫn dư được một số tiền.
Chúng ta chân thành cảm tạ
Chúa đã thi hành việc lớn nơi
đây để chúng ta có cớ lớn ngợi khen
Ngài».
Bảy tháng sau, Hội Thánh Paris lại tổ chức Hội
Đồng Bồi Linh lần thứ hai. Vẫn duy trì Hội Đồng hai tuần lễ
như trước, từ ngày 28-5-1982 đến ngày 6-6-1982,
với diễn giả Mục sư Trương văn Sáng, Giáo Hạt
Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại Bắc Mỹ,
gồm cả Hoa kỳ và Gia Nã Đại (Canada).
Thông tín viên của tờ Thông
Công số 46, phát hành tháng
6-1982 tại Paris có bài tường thuật ngắn như sau:
«Những ngày nắng tươi đẹp tháng 5
đã sưởi ấm thành phố sau mùa
đông lạnh giá, từng giọt nắng reo vui nhảy
nhót theo chân những tín hữu đang
tìm về Paris để cùng nhau sưởi ấm linh hồn bằng
lời Chúa yêu thương. Hội Đồng Bồi Linh lần II do
Hội Thánh Paris tổ chức với diễn giả là Mục sư
Trương văn Sáng, Giáo Hạt Trưởng Giáo
hạt Việt Nam tại Bắc Mỹ, đã khai mạc ngày
28-5-1982 tại nhà thờ Kremlin Bicêtre với sự
có mặt của các con cái Chúa
tại đây cùng một số tín hữu, Mụcsư,
Truyền Đạo đến từ Thụy sĩ, Đức, Hòa Lan. Hội
Thánh Paris đã chuẩn bị Hội Đồng từ nhiều
tháng trước và thu xếp nơi cư ngụ cho
các tín hữu đến từ xa.
Từ lần chia tay năm rồi, tất cả các con cái
Chúa đều mong ngóng có dịp gặp lại
nhau để thông công trong tình thương của
Cứu Chúa. Hội Đồng năm nay là dịp thuận tiện để
con cái Chúa tại Âu Châu lại
được nhóm họp, chia sẻ cho nhau những tháng
ngày xa quê hương.
Ngày khai mạc, Mục sư diễn giả đã chọn lựa một đề
tài có ý nghĩa: Sự cám dỗ
ngon ngọt của đời sống nơi nầy, và chúng ta
là người tín hữu ở hải ngoại có suy
nghĩ gì ? Bài giảng rất có ich trong
sự xác định thái độ của người tín đồ
trong đời sống ở hải ngoại.
Chiều Thứ Bảy 29/5, diễn giả nói đến sự thử thách
đối với một số tín đồ được Chúa dùng,
sự thử thách hẳn là khó khăn khi
ý hướng và chương trình của
Chúa thật lạ lùng khác xa
trí óc và sự hiểu biết của
chúng ta.
Sau khi tạm nghỉ để ăn chiều, các con cái
Chúa lại nhóm họp để nghe về cái
«Tôi» to lớn mà nhiều người
đặt ra trước mặt Chúa. Theo diễn giả, không ai
có thể để lòng trống không,
vì nếu lòng ta không có
Chúa thì ma quỉ sẽ bước ngay vào
lòng trống đó mà cái
«Tôi» chỉ là một biểu hiện.
Khi săn sóc cái
«tôi» của mình quá
đáng ta sẽ phạm tội thờ tà thần mà ta
không biết.
Chúa nhựt 30/5 là buổi truyền giảng đặc biệt cho
đồng hương Việt Nam, có hơn 100 người tham dự. Hai
ngày tiếp theo, phái đoàn Paris
cùng tháp tùng với Mục sư Trương văn
Sáng đi Toulouse giảng lời Chúa ở đó.
Ngày Thứ Tư phái đoàn đi Thụy sĩ thăm
con cái Chúa, nhân tiện liên
lạc với Mục sư người bản xứ tại thành phố Bern
bàn thảo về việc thành lập Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam tại Thụy sĩ, trước nhất là tại
thành phố Bienne.
Thứ Sáu 4-6-1982, Hội Đồng Bồi Linh tiếp diễn với đề
tài: «Sự biết ơn của người tín
đồ». Diễn giả nhấn mạnh rằng con người thường kêu
van lúc hoạn nạn nhưng khi được sung sướng thì
lại quên ngay. Một người có lòng biết
ơn Chúa thật sự và sâu xa,
không phải lòng biết ơn «phô
diễn bằng nghi thức tôn giáo» sẽ đứng
vững mãi trong Chúa.
Buổi nhóm chiều hôm sau, diễn giả kêu
gọi sự hiệp một của con cái Chúa để có
đủ ơn, đủ sức mạnh dắt đưa nhiều người đến với Chúa. Cũng
trong ý hướng đó, buổi nhóm tối được
xoay quanh vấn đề trách nhiệm của người được cứu đối với
người chưa được cứu. Toàn thể mọi người có mặt
đều cảm động rơi nước mắt cầu nguyện thiết tha với Chúa.
Ngày bế mạc 6-6-1982, Mục sư Trương văn Sáng
có bài giảng đặc biệt cho các bạn
Thanh Niên Hội Thánh Paris vào
lúc 14 giờ. Sau đó Hội thánh cử
hành lễ bế mạc trong bầu không khí rộn
ràng, tin yêu, dù không khỏi
vương vấn đôi chút quyến luyến của buổi chia tay
với sứ điệp kêu gọi con cái Chúa đứng
lên xây dựng nhà Chúa.
Sau phần trao quà kỷ niệm, toàn thể cử tọa nắm
tay nhau thành vòng tròn ca
hát ngợi khen Đấng Toàn Năng. Tổng kết, phần bồi
linh của Hội Đồng bao gồm các vấn đề gần gũi và
thực tế nhất mà mỗi tín đồ phải đối diện trong
đời sống hằng ngày, do đó đem lại lợi
ích thuộc linh lớn lao. Sự gặp gỡ, nhóm họp lần
nầy của anh chị em trong Chúa sống rãi
rác trên toàn Âu
Châu là suối phước ngọt ngào sẽ lưu
chảy trong mỗi người cho đến mãi
mãi...».
Hội Đồng Bồi Linh lần II tại Paris đã trở thành
một Hội Đồng lịch sử vì liên quan tới việc
thành lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
tại Âu Châu với văn bản lịch sử sau đây:
«Thể theo lời yêu cầu của các đầy tớ
và con cái Chúa ở các nước
Pháp, Thụy sĩ, Tây Đức và
Hòa Lan, một phiên họp đặc biệt được diễn ra tại
tư gia của Mục sư Nguyễn văn Bình lúc 9 giờ
sáng ngày 5 tháng 6 năm 1982. Hiện
diện có:
-Mục sư Trương văn Sáng, Giáo Hạt Trưởng Hội
Thánh Tin lành Việt Nam Bắc Mỹ, cố vấn cho buổi
họp.
-Mục sư Giáo sĩ Johan (Hòa Lan)
-Mục sư Nguyễn văn Bình, Quản nhiệm Hội thánh
Paris.
-Truyền Đạo Triệu Thái Sơn, đại diện Hội thánh
Tin Lành Việt Nam tại Thụy sĩ.
-Ông Lê văn Dinh, đại diện Hội thánh Tin
Lành Việt Nam tại Tây Đức.
-Ông Lâm Khắc Phụng, đại diện Hội thánh
Tin Lành Việt Nam tại Hòa Lan.
-Bà Auguste Nguyễn văn Sang, tín hữu Paris.
-Bà Lê Hoàng Ân,
tín hữu Paris.
-Bà Phan Thị Ba, tín hữu Paris.
Sau khi Mục sư Nguyễn văn Bình trình
bày lý do buổi họp, Mục sư Trương văn
Sáng cầu nguyện để Chúa soi sáng hầu
buổi họp được sự dẫn dắt, đạt kết quả tốt đẹp, làm
sáng danh Chúa và cứu đồng
bào. Toàn ban thảo luận và biểu quyết
các điểm sau:
-Biểu quyết 1: Cử Truyền Đạo Triệu Thái Sơn làm
thư ký viết Biên bản cho buổi họp.
-Biểu quyết 2: Thành lập một tổ chức lấy tên:
«Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại
Âu Châu» với mục đích
liên kết các Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam tại các nước trong Âu
Châu.
-Biểu quyết 3: «Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam tại Âu Châu» giữ đúng
giáo lý thuần túy và tinh
thần của Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam.
-Biểu quyết 4: Cử Ban Chấp Hành Lâm Thời của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam tại Âu
Châu như sau:
-Cố vấn: Mục sư Giáo sĩ Johan (Hòa Lan).
-Trưởng ban: Mục sư Nguyễn văn Bình.
-Phó ban: Truyền đạo Triệu Thái Sơn
-Thư ký: Ông Lê văn Dinh
-Thủ quỹ: Ông Lâm Khắc Phụng
-Ủy viên: Bà Auguste Nguyễn văn Sang
-Ủy viên: Bà Lê Hoàng
Ân
-Ủy viên: Bà Phan Thị Ba.
-Biểu quyết 5: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại
Âu Châu lo nghiên cứu để bổ nhiệm người
Truyền Đạo Tình Nguyện và phong chức Mục sư cho
Truyền Đạo.
Sau khi Mục sư Nguyễn văn Bình cầu nguyện, buổi họp kết
thúc lúc 11 giờ kém 10 cùng
ngày ».
Ít lâu sau, Mục sư Nguyễn văn Bình, Đại
diện Ban Chấp Hành Lâm Thời của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam Âu
Châu soạn Bản Quy Chế Truyền Đạo Nguyện chuẩn bị
kêu gọi con cái Chúa gia nhập
vào Đoàn Truyền Đạo Tình Nguyện đứng
lên thành lập Hội Thánh như sau:
I. Nhu cầu:
Tại Âu Châu có hàng trăm
ngàn người Việt Nam sinh sống, nhưng thiếu người lo chăm
sóc đời sống thuộc linh cho họ. Một số người có
tâm tình hầu việc Chúa nhưng
không có đủ thì giờ và
phương tiện đến các Thần học viện để tu học.
Vì nhu cầu cấp bách trong việc truyền rao Tin
Lành cho đồng hương và lo cho đời sống thuộc linh
của các tín hữu hiện đang sống rãi
rác tại các nước Âu Châu,
nay, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Âu
Châu đặc biệt thu nhận các Truyền
ĐạoTình Nguyện.
II. Mục Đích:
Làm chứng về ơn cứu rỗi cho đồng hương, thành lập
và gây dựng Hội Thánh giữa những người
Việt tha hương, giúp cho con cái Chúa
có tâm tình hầu việc Chúa,
có phương tiện trao dồi, học hỏi để có đủ
ân tứ, đức độ và khả năng phục vụ Chúa
cách tình nguyện giữa những người đồng hương nơi
mình sinh sống.
III. Điều Kiện:
1. Phải là tín hữu đã chịu
báp têm ít nhất hai năm trở
lên.
2. Phải có phẩm hạnh hiệp với Kinh Thánh:
«Ví bằng có kẻ mong được làm
giám mục, ấy là ưa muốn một việc tốt
lành, lời đó là phải lắm. Vậy, người
giám mục cần phải không chỗ trách được,
là chồng chỉ một vợ mà thôi,
có tiết độ, có tài trí,
xứng đáng, hay tiếp khách và
khéo dạy dỗ. Đừng mê rượu, cũng đừng hung bạo,
nhưng phải mềm mại hòa nhã, lại đừng ham tiền
bạc, phải khéo cai trị nhà riêng
mình, giữ con cái mình cho
vâng phục và ngay thật trọn vẹn, vì nếu
có ai không biết cai trị nhà
riêng mình, thì làm sao cai
trị được Hội Thánh của Đức Chúa Trời? Người mớ
tin đạo không được làm giám mục, e
ngưòi tự kiêu mà sa vào
án phạt của ma quỉ chăng. Người giám mục lại phải
được người ngoại làm chứng tốt cho, kẻo bị sỉ nhục
và mắc bẫy ma quỉ» (I Timôthê
3:1-7).
«Mỗi người trong vòng Trưởng Lão
đó phải cho không chỗ trách được, chỉ
chồng của một vợ, con cái phải tin Chúa,
không được bị cáo là buông
tuồng hoặc ngỗ nghịch. Vì người giám mục
làm kẻ quản lý nhà Đức Chúa
Trời thì phải không chỗ trách được.
Chẳng nên kiêu ngạo, giận dữ, ghiền rượu, hung
tàn, tham lợi, nhưng phải hay tiếp khách, bạn với
người hiền, khôn ngoan, công bình,
thánh sạch, tiết độ, hằng giữ đạo thật y như đã
nghe dạy, hầu cho có thể theo đạo lành
mà khuyên dỗ người ta và bác
lại kẻ chống trả» (Tít 1:6-9).
3. Phải chăm chỉ học lời Chúa (I Ti 4:13) và lấy
Kinh thánh làm nền tảng cho lời giảng dạy của
mình (II Ti 3:13-16).
4. Phải có tâm tình phục vụ
Chúa, chịu sự cực khổ của người truyền giảng Tin
Lành (II Ti 4:1-5).
5. Sẵn sàng tuân giữ mọi kỷ luật của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam Âu
Châu và kỷ luật của người đầy tớ Chúa.
IV. Nhiệm Vụ:
1. Chăm sóc đời thuộc linh cho tín hữu.
2. Mở mang Hội Thánh.
3. Truyền giảng Tin Lành cho đồng hương.
4. Duy trì và phát triển tinh thần
Kính Chúa, Yêu người và thực
thi sự thánh khiết của Chúa trong cuộc sống hằng
ngày.
V. Quyền Hạn:
Vị Truyền Đạo Tình Nguyện được quyền:
1. Giảng dạy lời Chúa.
2. Thi hành các thánh lễ: Tiệc
Thánh, An táng, dâng con trẻ
và xức dầu cầu nguyện cho người bệnh.
3. Đương nhiên là Đại biểu chính thức
trong các Hội Đồng của Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam Âu Châu hay
Giáo Hạt, Giáo Sở liên hệ.
VI. Cơ Hội Cho Chức Vụ:
Sau hai năm thi hành chức vụ Truyền Đạo Tình
Nguyện, nếu người Truyền Đạo Tình Nguyện được:
1. Lời chứng tốt
2. Học hết chương trình thần học, Lịch sử Hội
thánh và một số môn căn bản cho chức
vụ, tổng cộng được 24 tín chỉ trở lên.
3. Có khả năng chăn dắt Hội thánh hoặc đang phục
vụ Chúa với các cơ quan của Hội thánh
Tin Lành Việt Nam Âu Châu.
4. Sau khi qua một cuộc khảo sát về thần học, sự
kêu gọi và kinh nghiệm truyền đạo, nếu thấy vị
Truyền Đạo Tình Nguyện có đủ ân tứ
và khả năng sẽ được bổ nhiệm chức vụ «Truyền Đạo
Thực Thụ».
VII . Bị Giải Chức:
Vị Truyền Đạo Tình Nguyện được Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam Âu Châu bổ nhiệm vi phạm
một trong những điều ghi trong điều ba (III) của Bản Quy Chế nầy, sẽ bị
Ban Chấp Hành Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam Âu Châu giải chức.
Đuốc
Thiêng 100
01
Thiên
đàng
- ĐTPÂ
02
Hát
nói:
Ngày phán xét
- Trần Nguyên Lam Bửu
03
Chúa
Giê-xu chịu thương khó
- Quyền Linh
04
"Các
ngươi phải yêu nhau"
- H4
05
Thơ: Cảm tạ
Chúa Giê-xu - Linh Quyền
06
Áp-ra-ham
theo lời Chúa gọi
- Mục sư Trần Hữu Thành
07
Tiểu sử
Thánh ca
- Fanyia
08
Thơ: Lời
Chúa
- Đức Huy
09 Đời chẳng ai ngờ
- Vinh Bằng
10
Thơ:
Hè về - Đức Huy
11
Đọc "Biển
rộng
hai vai" của Lữ Thành Kiến
- Nguyễn Đình Bùi Thị
12
Quanh ta
ngậm
ngùi - Bà Lê Văn Bắc
13
Giêrusalem,
4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
14
Xứ Do
Thái khi
Chúa Jêsus khởi sự công tác
- Mai Đào
15
Đuốc
Thiêng - Người bạn đồng hành đáng
yêu - Bình Tú Ngọc
16
Vài
nét về Hội Đồng Giáo Hạt Pháp lần thứ
21
- TĐTN Trương Đức Huy
17
Tin Tức
- Vinh Bằng