NGỢI
GIÊ-HÔ-VA THÁNH ĐẾ
Ngợi
Giê-hô-va Thánh Đế,
Là
Chân Chúa Áp-ra-ham,
Từ xưa cho đến vĩnh viễn
độc tôn, bác ái siêu
phàm.
Trời đất thảy thảy chứng
minh,
Tự hữu, vĩnh hữu duy
Ngài.
Quỳ đây
tôi tung hô Đấng chí Thánh,
hiển vinh lâu dài!
“NGỢI GIÊ-HÔ-VA THÁNH
ĐẾ” là
bài hát thứ ba trong bộ sưu tập Thánh
Ca của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam, từ lâu
đã được
chuyển lời sang Việt ngữ. Những bài thánh ca
này
đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống
thuộc
linh của những người tín hữu Việt Nam, đồng thời cũng
là
người bạn đồng hành với các cơ đốc nhân
người Việt
trong suốt nhiều thập niên qua trên con đường bước
đi theo
Chúa Giê-xu mỗi ngày.
“NGỢI GIÊ-HÔ-VA THÁNH
ĐẾ” có lẽ
là một bài hát mang âm hưởng
Do Thái
nhất trong các bài thánh ca Cơ Đốc.
Bài
hát này đã trải qua nhiều
thế kỷ, và
được chuyển sang nhiều ngôn ngữ khác nhau
trên thế
giới. Nguồn gốc của nó xuất phát từ một học giả
người Do
Thái thời trung cổ Moses Maimonides (1135-1204),
là người
đã viết nên lời xưng nhận đức tin chứa đựng 13
tín
điều.
Các thế kỷ sau đó, vào năm 1404, một
học giả người
Do Thái khác là Daniel Ben Judah, một
thẩm
phán, một nhà thơ chuyên về
lễ nghi thờ
phượng tại Rome đã thật sự bị cuốn hút bởi
bài
tín điều của Maimonides, nên ông
đã
sáng tác bài hát
tôn vinh có
tên là “Yigdal”;
bài hát
này gồm 13 bài tứ tuyệt, được sử dụng một
cách
rộng rãi cho đến ngày nay trong trong
các
nhà hội Do Thái.
Nhiều thế kỷ sau, vào năm 1770, có một giọng ca
opera nổi
tiếng tên là Meyer Lyon đã
hát bài
Yigdal ở tại nhà hội London’s Great Synagogue, ở
Duke’s Place. Không ngờ trong đêm
hôm
đó, trong phòng thích giả
có sự tham dự của
Thomas Olivers. Tôi thiết nghĩ cũng nên
dành
vài dòng để miêu tả gia cảnh của
ông, để thấy
được điều gì đã xảy ra với con người
này, đồng
thời để thấy được quyền năng nhiệm màu của Đức
Chúa Trời
trong việc tái tạo cuộc đời của những con người bị bỏ rơi
giữa
vòng đời.
Thomas Olivers (1725-1799) sinh ra tại Tregynon xứ Wales, bị mồ
côi từ lúc lên bốn tuổi. Ông
đã học
nghề làm giày da theo cách thủ
công, nhưng
ông học hát thì giỏi hơn nhiều. Nhiều
người biết về
cậu bé này và xác nhận rằng
“Cậu
bé tồi tệ nhất này được biết đến tại Tregynon
trong ba
mươi năm.”
Vào lúc Thomas 18 tuổi, ông
đã bị ném
ra ngoài phố, thế là ông đi lang thang
xuống
Bristol, Anh Quốc. Xảy ra, tại đó có một
nhà
truyền giáo tên là George Whitefield
đang giảng về
Xa-cha-ri 3:2 "... Chớ thì nầy há chẳng phải
là
cái đóm đã kéo ra từ lửa
sao?"
Thomas nhớ lại rằng “Khi bài giảng bắt đầu,
tôi
là một trong những người thanh niên bị ruồng bỏ,
phóng đãng, và trác
táng nhất trong
những người trẻ tuổi đang sống hiện thời, và khi
bài
giảng kết thúc thì tôi là
một tạo vật mới.
Thế giới này đối với Thomas thật sự đã thay
đổi”.
Sau đó ông đã trở thành một
nhà
truyền giáo lưu động, một người tham gia vào
công
tác hội thánh một cách nhiệt
thành hơn bao
giờ hết.
Vào trong đêm Sa-bát năm 1770, khi
Thomas nghe
Meyer Lyon hát bài Yigdal, ông thật sự
bị cảm
thúc đến nỗi sau đó ông tiến
sát đến với
âm nhạc của Meyer Lyon và phỏng theo
bài hát
tôn vinh của người Do Thái để làm
thành một
bài thánh ca Cơ Đốc gồm 13 bài tứ
tuyệt, bắt đầu
bằng bài hát: “NGỢI GIÊ-
HÔ-VA
THÁNH ĐẾ” trong tiếng Anh là:
“THE GOD OF
ABRAHAM PRAISE”
Thomas đã chú thích cho hầu hết
các
dòng của bài hát bằng cách
trích dẫn
một số tham khảo trong Thánh Kinh. Trích dẫn đầu
tiên trong bài hát này
là Xuất 3:6
“Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi,
Đức
Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời
của
Y-sác, và Đức Chúa Trời của
Gia-cốp...”
Bài hát này xuất hiện vào
năm 1785 trong bộ
sưu tập thánh ca có tên là
“Pocket
Hymnbook” của John Wesley.
NGÀY NAY
CHÚA PHỤC SANH
Ngày nay
Chúa phục Sanh phước bấy, Ha-lê-lu-gia!
Người, thiên
sứ reo lên như vậy, Ha-lê-lu-gia!
Cùng
dâng khải hoàn ca chúc
khánh, Ha-lê-lu-gia!
Thiên cung
hát, địa hạ ứng thanh, Ha-lê-lu-gia!
Bài hát thánh ca số 104 có
tựa đề
“NGÀY NAY CHÚA PHỤC SANH”
trong tiếng Anh
là “CHRIST THE LORD IS RISEN TODAY” do
Charles
Wesley sáng tác, và được xuất bản lần
đầu
tiên vào năm 1739. Ông sinh năm 1708
và qua
đời vào năm 1788, để lại rất nhiều con cháu thuộc
linh,
cùng với những tác phẩm thánh ca Cơ
Đốc bất hủ
mà ngày nay được sử dụng rộng rãi
trong hầu hết
các hội thánh trên thế giới.
Không ai biết
được bối cảnh cụ thể khi ông sáng tác
bài
thánh ca này, dầu vậy chúng ta cũng
nên
dành vài phút để đọc lại một số những
lời chứng về
những sự kiện trong cuộc đời của Charles Wesley, để có thể
hiểu
phần nào tác phẩm thánh ca
mà ông
đã viết nên.
John và Charles Wesley đã sớm đã nhận
thấy
chính mình không được những mục sư đồng
nghiệp Anh
Giáo tạo điều kiện thuận lợi trong việc giảng dạy. Những mục
sư
này, thời bấy giờ tìm cách hất bỏ
những người
truyền giáo phúc âm bốc lửa
và nhiệt
thành. Và thế là nhiều bục giảng của
John
và Charles đã bị đóng lại.
Tuy vậy, có một người bạn của ông tên
là
George Whitefield ở tại Oxford, lúc bấy giờ 22 tuổi, cũng
có cùng một nan đề tương tự, nhưng George
Whitefield
đã bắt đầu giảng dạy ngoài trời. Tại London,
ông
đã đề nghị Charles cộng tác với ông khi
ông
giảng Phúc Âm cho hàng ngàn
người
ngoài trời tại Blackheath, đối với Charles cũng
vậy,
ông cũng có một khải tượng giảng Tin
Lành cho
đông đảo quần chúng nhân dân.
Ông đã thực hiện sự cố gắng lần đầu tiên
tại một
vùng ngoại ô London. Charles đã kể lại
rằng:
“Franklyn, một người nông dân
đã mời tôi
giảng Phúc Âm trong cánh đồng của
ông
ta”. Ông đã viết lại rằng:
“Vậy là
tôi đã thực hiện được một cuộc rao giảng cho
khoảng 500
người. Hôm đó tôi đã trở về
nhà với
tinh thần thật sự vui mừng hớn hở biết bao”. Và
thế
là sau đó không lâu,
ông đã
giảng dạy cho hàng ngàn người. Ông kể
lại rằng:
“Lo lắng, ngờ vực và những ngại ngùng
của tôi
đã tan biến. Đức Chúa Trời đã soi
sáng lối
đi tôi; và tôi biết được ý
chỉ của
Ngài đang quan tâm đến tôi”.
Một người nam tên là Joseph Williams đã
nghe
Charles giảng tại Bristol. Ông kể lại rằng:
“Tôi thấy
Charles đứng trên một cái bàn
trên sân
khấu, trong một tư thế thẳng đứng... tôi đoán
là
hơn một ngàn người bao quanh ông; một số người
trong số ấy
là những người ăn mặc sang trọng và hợp thời
trang, nhưng
phần lớn là những người thuộc vào hạng loại
dân
đen. Ông đã cầu nguyện với Chúa bằng
những lợi
nguyện cầu tha thiết và sôi sục lạ thường...
Và sau
đó ông giảng khoảng nửa giờ đồng hồ theo phong
cách
rất đặc biệt mà hiếm khi tôi được nghe bất kỳ một
người
nào rao giảng... Tôi nghĩ rằng tôi chưa
bao giờ được
nghe một người nào rao giảng tha thiết và sốt
sắng đến
nỗi có thể chinh phục các thính giả,
là
những con người có bản chất tội lỗi, xấu xa, bị hư mất,
và đang ở trong một trạng thái bị hủy hoại, bị bỏ
dở; thế
nhưng họ lại có khả năng nhận được sự cứu rỗi
thông qua
đức tin nơi Đấng Christ... Ông đã trích
dẫn nhiều
phần Thánh Kinh để làm nền tảng, để giải
thích
và để minh họa, và sau đó
ông dùng
lời tâm tình thúc dục, cùng
với những lập
luận đầy sức thuyết phục, đồng thời vạch ra những chổ sai
trái
một cách thân mật và chân
tình;
và thế rồi ông mời gọi, lôi cuốn,
kích
thích, và dường như nếu có thể được,
ông
thúc ép tất cả mọi thính giả tiếp nhận
Đấng Christ
để nhận được sự cứu rỗi cho linh hồn.”
Cũng cùng phong cách như vậy, ngày nay
Charles
Wesley tiếp tục rao giảng qua những bài thánh ca
không bao giờ lỗi thời, chúng được hát
lên
với phạm vi toàn thế giới vào mỗi sáng
Chúa
Nhật, cũng như vào những giờ thờ phượng khác của
cá nhân, của gia đình và của
hội
thánh. Có lẽ đây là
bài hát
thánh ca hồ hởi nhất, mà đơn giản tác
giả gọi
là “Hymn for Easter Day”, tạm dịch
là
“Bài Thánh Ca Cho Ngày Phục
Sinh”,
được xuất bản vào năm 1739. Nguyên thủy
bài
này gồm có 11 khổ thơ tứ tuyệt. Phần
“Alleluia’s” được thêm
vào sau
này; nhưng nói tóm lại thì
đây
là bài thánh ca mà
các tín
hữu Cơ Đốc trên thế giới, cũng như các Cơ Đốc
nhân
người Việt thường xuyên dùng để ca ngợi
Chúa
mà không bao giờ cảm thấy chán
chút
nào.
Những thông tin trên đây được
trích và
chuyển ngữ từ tài liệu THEN SINGS MY SOUL của nhà
xuất
bản THOMAS NELSON PUBLISHERS.