Tác giả :
Paul Tillich
Chuyển ngữ: Mỹ Khanh Fleckner
Nguyên-tác : sách "In der
Tiefe ist
Wahrheit"
"Đến chiều tối, có một người giàu, ở
thành A-ri-ma-thê, tên là
Giô-sép, chính là một
môn đồ của Đức Chúa Jêsus, đến nơi
Phi-lát mà xin xác Đức Chúa
Jêsus. Phi-lát bèn truyền cho.
Giô-sép lấy xác Ngài
mà bọc trong tấm vải liệm trắng, và đưa để trong
một cái huyệt mới mà người đã khiến
đục cho mình trong hòn đá; đoạn, lăn
một hòn đá lớn đến trước cửa mồ, rồi đi.
Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác ở
đó, ngồi đối ngang huyệt. Đến ngày mai
(là ngày sau ngày sắm sửa),
các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si
cùng nhau đến Phi-lát mà
nói rằng: Thưa chúa, chúng
tôi nhớ người gian dối nầy, khi còn sống,
có nói rằng: Khỏi ba ngày
thì ta sẽ sống lại. Vậy, xin hãy cắt người canh
mả cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đồ
nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với
chúng rằng: Ngài đã từ kẻ chết sống
lại. Sự gian dối sau đó sẽ tệ hơn sự gian dối trước.
Phi-lát nói với họ rằng: Các ngươi
có lính canh; hãy đi canh giữ theo
ý các ngươi. Vậy, họ đi, niêm phong mả
Ngài lại, cắt lính canh giữ, lấy làm
chắc chắn lắm". Ma-thi-ơ 27:57-66
Tại phiên tòa xử tội phạm chiến tranh
(Toà án Nuremberg (Đức), 1945-1946, xử
các tội-phạm Đức quốc-xã đã
gây ra trong thế-chiến 1941-1945), có một người ra
làm chứng. Người nầy đã sống rất lâu
trong một ngôi mộ ở nghĩa trang Do Thái tại Wilna.
Đây là chỗ trốn duy nhất của người nầy
và nhiều người khác, sau khi thoát
khỏi các phòng hơi ngạt. Trong thời gian sống ở
đây, anh ta đã làm thơ, trong
đó có một bài diễn tả em bé
chào đời, sự-cố như sau: Trong ngôi mộ
sát bên nấm mộ làm chỗ trốn của anh,
có một người đàn bà sinh được một đứa
con trai. Đỡ đẻ cho bà, là một phu đào
huyệt già 80 tuổi, mặc đồ tang. Lúc đứa
bé cất tiếng khóc chào đời, người phu
đào huyệt này đã cầu nguyện như sau:
"Lạy Chúa, phải chăng thế là nay Ngài
đưa Đấng Mê-si đến với chúng con? Vì
có ai có thể chào đời trong mồ mả
ngoài Đấng Mê-si!" Ba ngày sau,
nhà thơ của chúng ta thấy đứa bé uống
những giọt lệ của mẹ nó vì bà mẹ
không có sữa để cho con bú.
Câu chuyện trên đây vượt quá
sự tưởng tượng của con người. Nó đã
làm cho chúng ta vô cùng
xúc động, mà còn có một
ý nghĩa biểu tượng rất lớn. Lần đầu tiên sau khi
đọc xong, tôi ý thức mạnh mẽ hơn bao giờ hết một
điều, đó là trong những câu chuyện
Phúc Âm kể, những biểu tượng Cơ đốc
giáo đã mất đi phần lớn năng quyền, bởi
vì đã được lập đi lập lại quá nhiều
và sử dụng một cách hết sức hời hợt. Người ta
không nhớ nữa rằng máng cỏ chào đời của
Chúa mô tả sự nghèo hèn,
cùng khổ, trước khi trở thành nơi có
thiên sứ hiện đến và ngôi sao hướng tới.
Người ta không nhớ nữa rằng nấm mộ của Chúa
Giê-xu là chỗ kết thúc cuộc đời
và công trình của Ngài,
trước khi trở thành chỗ Ngài chiến thắng vĩnh
viễn. Chúng ta không còn xúc
cảm trước sự căng thẳng tột độ trong những chữ "chịu thương
khó..., bị đóng đinh trên thập tự
giá, chịu chết và chôn..." trong
bài Tín Điều Các Sứ Đồ. Vì
vừa nghe xong mấy chữ đó, chúng ta đã
biết ngay câu kế tiếp "Đến ngày thứ ba,
Ngài từ kẻ chết sống lại..." Với nhiều người, đương
nhiên sự kiện Chúa sống lại là một
cái kết thúc có hậu
Ông già đào huyệt người Do
Thái biết xúc cảm đó rõ hơn
chúng ta. Đối với ông, sự hồi hộp trông
đợi Đấng Mê-si đã trở thành hiện thực,
hiện thực đó xảy đến trong tương phản lớn giữa điều
ông thấy và hy vọng trong ông.
Cao điểm sự hồi hộp của câu chuyện được mô tả trong
phần cuối. Sau ba ngày, đứa bé không
được đưa lên vinh hiển thiên đàng,
nó uống những giọt lệ của mẹ nó vì
không có gì khác để uống.
Rất có thể đứa bé đó đã
chết và hy vọng của người đàn ông Do
Thái lại một lần nữa bị đánh lừa, như những lần
lầm tưởng trước đó. Không có một
chút an ủi nào trong câu chuyện -
vì kết thúc không vui -nhưng
hoàn toàn tương ứng với sự thật trong đời sống.
Trong quyển "Credo" của Karl Barth, có một chỗ
nói về chữ "chôn" trong bài
Tín Điều Các Sứ Đồ rất đáng
chú ý: "Chắc chắn trước mắt mọi người
và hiển nhiên, khi một người bị chôn -
dù có vẻ như vẫn còn, nhưng thật sự
đã khuất mặt - người đó không
còn hiện tại và không còn
tương lai nữa. Kẻ đó chỉ là dĩ vãng.
Chỉ còn nhờ kỷ niệm người ta mới nhớ tới, và chỉ
được nhớ tới khi người ta có thể nhớ và sẵn
lòng nhớ, cho đến khi cả kỷ niệm đó cũng bị
chôn vùi. Và tương lai mà
toàn thể nhân loại đang theo đuổi, đó
chẳng qua là: để bị chôn." Ba chữ này
mô tả đúng tình trạng lúc
ông già người Do Thái cất lời cầu
nguyện: "Chúa ôi! Phải chăng nay Ngài
đưa Đấng Mê-si đến với chúng con?"
Thông thường, chúng ta không coi trọng
cho lắm chữ "chôn", kể cả việc Đấng Christ bị chôn
cũng như chúng ta bị chôn-vì nghĩ rằng
không phải chúng ta bị chôn
hoàn-toàn, mà chỉ có một
phần không quan trọng nào đó của
mình hay của thân thể mình
mà thôi. Nhưng đó không phải
là điều hàm chứa trong bài
Tín Điều. Trong đó ta đọc được chính
Đức Chúa Giê-xu đã "chịu thương
khó, chịu chết và chôn" và
"đã sống lại" Ngài đã bị
chôn, cả con người Ngài bị đất lấp vùi.
Chúng ta cũng thế, cũng sẽ chết và cả con người
mình, cái con người mà thân
xác không thể tách ra như một bộ phận
tình cờ, sẽ bị chôn.
Chỉ khi chúng ta chân thành tiếp nhận
sự "chôn mình" theo Phúc Âm,
chúng ta mới nhận ra giá trị của sự kiện Phục
Sinh của Chúa, và lời nói của
ông già đào huyệt: "Ngoài
Đấng Mê-si ra, ai có thể sinh ra từ trong mộ
phần?" Câu hỏi nầy có hai mặt. Chỉ có
Đấng Mê-si mới có thể làm cho sự sống
bừng dậy từ cõi chết. Đây không phải
là chuyện thường ngày xảy ra, cũng
không phải là một hiện tượng thiên
nhiên. Mà là một sự kiện chỉ xảy ra
trong ngày của Đấng Mê-si. Là sự-kiện
sâu nhiệm lạ lùng nhất và nghịch
lý nhất trên đời. Sự sống đi ra từ mộ phần
không thể xảy đến để làm chứng rằng có
một phần tốt hơn trong bản thân chúng ta bất tử.
Sự sống đời đời chỉ xuất phát qua một "cuộc đời mới"
mà theo đức tin của chúng ta, đã hiện
ra trong Đức Chúa Giê-xu Christ.
Nhưng cho rằng ngoài Đấng Mê-si ra,
không ai có thể sống lại từ trong cõi
chết được, còn có một mặt khác
mà có thể người đào huyệt Do
Thái tin kính không ý thức
được. Đấng Christ phải được chôn rồi mới thật sự
là Đấng Christ, Đấng chiến thắng sự chết. Câu
chuyện phục sinh mà Phúc Âm ghi lại
là bằng chứng của một cái chết không
chối cãi được và Ngài đã bị
chôn. Những người đàn bà,
các thầy tế lễ cả, những người lính canh,
hòn đá niêm phong là những
thứ Phúc Âm dựa vào để chứng tỏ
Ngài thật đã chết. Dù được người ta
nói cho nghe với giọng hờ hững hay với giọng đắc thắng,
chúng ta cũng nên quan tâm hơn, rằng
Chúa đã được chôn, rằng Ngài
vĩnh viễn rời trần thế và không còn dấu
vết nào để lại trên dương trần. Và cũng
nên để tâm nhiều hơn đến những người nghi ngờ thất
vọng, bảo: "Thế mà chúng tôi
đã tin rằng Ngài là Đấng phải đến, đến
để giải cứu dân Y-sơ-ra-ên". Ngày nay,
không mấy khó nghe cả hai tiếng nói
đó trong thế gian có quá nhiều chỗ
giống cái nghĩa địa Do Thái ở Wilna. Kể cả trong
lòng chúng ta, của mỗi con người. Khi nghe được
rồi, ta phải trả lời ra sao? Chúng ta phải tìm ra
câu trả lời, vì những gì ta thấy trong
ngày lễ Phục Sinh không có được
câu trả lời ta cần. Trong thực tế, mọi việc không
đương nhiên dẫn đến một kết thúc có hậu
như kết thúc các chuyện phim mà con
người làm ra. Đấng Christ có chết đi
và được chôn thì mới có sự
Phục Sinh. Cuộc đời mới không thật sự là đời mới
nếu không đi ra từ sự tận cùng của cuộc đời cũ.
Nếu không, phải đem chôn nó một lần nữa.
Nhưng khi cuộc đời mới từ mồ mả bước ra thì thật
chính Đấng Mê-si đã hiển hiện.