Một trăm
năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu
Thành
Đuốc Thiêng
104, năm 2011
Cô-lô-se 3:15
"Phải biết ơn"
Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc theo
phong tục
thờ cúng nhiều Thần, nhiều hình tượng.
Đúng như
Tiên tri Ê sai đã nói:
Chúng ta thảy
đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy. (Ê sai
53:6).
Nhưng bởi ơn thương xót, Đức Chúa Trời
đã sai
các tôi tớ Ngài đến Việt Nam
vào năm 1911 để
rao truyền Tin Lành cứu rỗi của Đấng Yêu thương.
Chỉ
có Ngài là Đấng xứng đáng
cho loài
người thờ phượng. Danh Ngài là Đức
Chúa Trời,
là Đấng Tạo Hóa của nhơn loại. Từ năm 1910 trở về
trước,
không có một nhà thờ Tin
Lành nào ở
Việt Nam, nhưng từ năm 1911 trở đi, nhà thờ Tin
Lành bắt
đầu mọc lên. Ngày nay, khi đi từ Bắc tới Nam,
chúng
ta thấy có rất nhiều nhà thờ Tin Lành
ở rải
rác khắp nơi, kể cả các miền Cao
nguyên. Khi
nói đến nhà thờ Tin Lành,
chúng ta
có ý nói là tại nơi
đó có
nhiều người đã tin nhận Đức Chúa Giê-su
làm
Cứu Chúa của mình. Họ đã được
Ngài ban cho
quyền phép trở nên con cái Đức
Chúa Trời.
(Giăng 1:12). Họ nhóm nhau lại để ca ngợi, chúc
tụng,
tôn thờ Ba Ngôi Đức Chúa Trời
là Đấng
Chân Thần, là Đấng thương yêu họ,
là Đấng cứu
rỗi họ thoát khỏi Hồ Lửa hình phạt đời đời.
Nhìn
lại 100 năm qua, từ khi Tin Lành đến Việt Nam có
hằng
triệu người Việt Nam đã, đang và sẽ được cứu. Khi
suy
nghĩ như vậy, chắc chắn chúng ta nhớ lại lời Kinh
Thánh
dạy rằng: Phải biết ơn. (Cô lô se 3:15). Vậy
chúng
ta biết ơn ai?
I.-
BIẾT ƠN NHỮNG NGƯỜI CÓ CÔNG KHÓ:
Chúng ta phải biết ơn quý vị Giáo sĩ
đã đến
Việt Nam rao giảng Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa
Giê-su. Những vị Giáo sĩ nầy từ Hoa kỳ đến. Họ
là
những người đang sống ở Mỹ là một nước có nếp
sống cao
hơn nếp sống ở nước Việt Nam. Nếu nói về phương diện
khí
hậu, thì những vị nầy đang sống trong vùng
ôn đới
mà qua Việt Nam, họ phải sống trong vùng nhiệt
đới. Họ
phải đương đầu với những nóng nảy, oi bức, những bịnh tật,
những
u-nhọt nổi lên, dễ thấy nhất là đàn
muỗi sẵn
sàng chào đón họ. Hơn thế nữa,
lúc
đó nước Việt Nam là một nước đang bị cai trị dưới
quyền
của thực dân Pháp. Nghĩa là họ phải gặp
khó
khăn với Chánh Phủ bảo hộ. Vì người
Pháp
không sẵn lòng giúp đỡ cho
dân Việt Nam theo
Đạo Tin Lành! Tiếp theo là những biến chuyển xảy
ra như
Thế Chiến Thứ nhì rồi đến cuộc chiến Việt Nam từ năm 1945
đến
năm 1975. Những vị Giáo sĩ là những người ngoại
quốc da
trắng, mũi cao, tóc nâu, cho nên
có rất nhiều
nguy hiểm đến với họ. Nhưng vì vâng phục
ý
Chúa, Ngài không muốn cho một người
nào
chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn. (2 Phi e rơ 3:9), cho
nên họ cứ tiếp tục trung tín với Chúa,
yêu
thương linh hồn tội nhơn Việt Nam và cứ tiếp tục rao giảng
Tin
Lành.
Có vị Giáo sĩ đang cơn giặc giã hai
bên bắn
nhau dữ dội, Ông và dân cư trong
các
nhà quanh đó phải trốn vào hầm
trú ẩn để
tránh lằn đạn hiểm nguy. Nhưng sau đó
có mấy người
lính cầm súng ra lịnh mọi người phải ra khỏi hầm
trú ẩn. Ông Giáo sĩ phải theo mọi người
bước ra.
Thấy vẽ mặt người lính hầm hầm, Ông
Giáo sĩ thưa
rằng: Tôi là Giáo sĩ.
Không cần trả
lời, người lính đã nổ súng,
Ông Giáo
sĩ đã về với Chúa, để lại biết bao tiếc thương
trong tấm
lòng của các con dân Chúa
dành cho
một vị Giáo sĩ vì yêu linh hồn người
Việt Nam phải
trả giá bằng chính sinh mạng của
mình!
Cảm tạ ơn Chúa, Ngài đã ban cho
Ông
Giáo sĩ nầy có một cuộc đời ích lợi
cho nhiều
người khác và hết lòng phục vụ
Chúa cho đến
hơi thở cuối cùng.
Chúng ta cám ơn tất cả quý vị
Giáo sĩ
đã chịu nhiều cực khổ để đem Tin Lành đến Việt
Nam, nhưng
không thể kể hết tên từng vị, cho nên
chúng ta
chỉ đề cập đến vài vị mà thôi, như
là:
-Giáo sĩ Đốc học John Drange Olsen, không những
Ông
đã có công đào tạo nhiều
tay đánh
lưới người mà còn để lại cho Hội
Thánh bộ
sách Thần Học, sách Sử ký Hội
Thánh
và Kinh Tiết Sách dẫn.
-Giáo sĩ W. Cadman, với sự trợ giúp của
nhà văn
Phan Khôi, Ông đã dịch toàn
bộ Kinh
Thánh, xuất bản năm 1926. Biết bao nhiêu con
dân của
Chúa nhờ quyển Kinh Thánh nầy mà học
biết về ơn
cứu rỗi của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, họ
đã tin theo
và được cứu. Mãi cho đến ngày nay, mỗi
chúng ta đều thấy bản dịch Kinh Thánh nầy thật
là
quý báu!
-Giáo sĩ Paul E Carlson, Ông đã viết
cho Hội
Thánh Việt Nam nhiều bài Kinh-Tiết-ca thật hay.
Những
bài nầy rất phổ thông cho đến nỗi hôm
nay nhiều
bà mẹ trẻ hoặc những bà nội, bà ngoại
thường dạy
các con, các cháu mình, khi
chúng
mới bập bẹ tập nói, học hát thuộc lòng
bài
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế
gian... (TC số
437) và bài Đức Giê Hô va
là Đấng
chăn giữ tôi... (TC số 433).
Kế đến, chúng ta cũng phải biết ơn những vị Mục sư
tiên
phong. Họ là những người vì yêu
Chúa
và yêu linh hồn đồng bào nên
từ bỏ những lợi
ích đời nầy vâng theo "sự kêu gọi
trên trời."
(Phi líp 3:14). Khi hy sinh hầu việc Chúa,
quý vị
Mục sư tiên phong biết rằng mình phải chịu thiếu
thốn, vất
vả, bị người ta chê cười, vì không hiểu
nên
nhiều người nói là họ theo "Đạo bỏ Ông
bỏ
Bà." Hơn nữa họ phải đương đầu với hiểm nguy vì
thường bị
nghi ngờ, bị theo dõi bởi những kẻ thù của Đấng
Christ.
Những kẻ nầy không hề thương yêu họ, mà
chỉ muốn
tìm cơ hội để tiêu diệt họ mà
thôi! Những vị
Mục sư tiên phong đã vâng theo lời
Chúa dạy,
họ "cầu xin Đức Chúa Trời" (Gia cơ 1:5) ban cho sự
khôn
ngoan, vượt qua những cạm bẫy khó khăn để được sống
còn
và cũng để tiếp tục hầu việc Chúa. Khi
chúng ta
đọc lại tiểu sử cuộc đời Cụ Mục sư Lê văn Thái
chúng ta thấy rõ điều nầy. Chúa
đã ban cho
Cụ đầy đủ khôn ngoan để đối đáp với những người
cầm quyền,
hầu bảo vệ Hội Thánh của Chúa trong những giai
đoạn
khó khăn của lịch sử đất nước. Cảm tạ ơn Chúa.
Nói đến những vị Mục sư tiên phong
chúng ta phải
nói đến Mục sư Hoàng Trọng Thừa, Mục sư
Lê văn
Thái, Mục sư Ông văn Huyên, Mục sư Vũ
văn Cư, Mục sư
Duy Cách Lâm... Dần dần về sau Chúa dấy
lên
những tôi tớ trung kiên của Chúa tận tụy
trong chức
vụ hầu việc Chúa, như Mục sư Đoàn văn
Miêng, Mục sư
Phạm Xuân Tín, Mục sư Phan văn Tranh, Mục sư
Nguyễn văn
Xuyến, Mục sư Nguyễn Thái Dương, Mục sư Phan Duy Hinh...
Riêng tôi, tôi hết lòng biết
ơn Cụ Mục sư
Nguyễn Đằng đã dạy giáo lý căn bản
và
làm Lễ Báp-tem cho tôi. Tôi
cũng nhớ ơn Cụ
Mục sư Phan văn Hiệu. Nhờ Cụ tận tụy trong chức vụ Chúa giao
phó mà chúng tôi hưởng được
những
ngày "Tiểu học Thánh Kinh" đầy phước hạnh ở Vĩnh
Long.
Đến đây chúng ta có thể bắt chước
tác giả
Hê bơ rơ mà nói rằng nếu kể hết những
vị Mục sư
gương mẫu "thì không đủ thì giờ"
(Hê bơ rơ
11:32). Chúng ta chỉ có thể nói
là cảm tạ
ơn Chúa, Ngài đã kêu gọi
và ban ơn
cho nhiều tôi tớ của Chúa hết lòng hầu
việc
Ngài. Ngài đã dùng họ để
rao giảng Tin
Lành, phát triển Hội Thánh của
Ngài
và cũng để làm gương tốt cho mỗi chúng
ta
ngày nay bắt chước họ hết lòng trung
thành với
Chúa. Thật cao quý thay những tôi tớ
Chúa
đã trung kiên với Chúa, tận tụy phục vụ
Ngài
hết cả đời sống của họ. Hiện nay họ đang vui thỏa hưởng phước đời đời
với Cha Thiên Thượng trong Nước vinh hiển của Ngài
ở
trên trời.
II.-
BIẾT ƠN BA NGÔI ĐỨC CHÚA TRỜI:
Một trăm năm Tin Lành đến Việt Nam, chúng ta
đã
nói là phải biết ơn những vị Giáo sĩ
và
những vị Mục sư tiên phong thì chúng ta
không
thể nào quên cảm tạ ơn của Ba Ngôi Đức
Chúa
Trời. Ơn của Ngài "cao bằng các từng
trời... rộng
lớn hơn biển cả!" (Gióp 11:8-9). Bởi lòng nhơn từ
vô biên của Đức Chúa Trời,
Ngài đã ban
ơn tha thứ cho chúng ta qua dòng huyết
cứu rỗi của
Đức Chúa Giê su Christ.
Nhớ lại trăm năm trước, lúc đó dân tộc
Việt Nam
"kính thờ và hầu việc loài chịu dựng
nên thế
cho Đấng dựng nên, là Đấng đáng khen
ngợi đời đời!"
(Rô ma 1:25). Nghĩa là thay vì
tôn thờ Đức
Chúa Trời, Ông Bà chúng ta
lại thờ con cọp,
con rắn... hoặc thờ người nầy, người kia... Họ cũng thờ cúng
nhiều sao như: sao Hạn, sao Kế đô, sao La hầu, v.v.
Nếu
nói về thờ cúng hình tượng,
có lẽ
chúng ta không thể kể ra cho hết bao
nhiêu
hình tượng người Việt Nam của chúng ta
đã thờ
phượng? Thêm nữa, nếu nói về tin dị đoan
thì cũng
không sao kể ra cho hết. Thí dụ: người ta tin rằng
nên kiêng cử việc xuất hành
vào những
ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba! Cưới vợ
gã
chồng cho con cái họ tránh tuổi kỵ: "tứ
hành
xung!" Cất nhà thì họ chọn phương hướng
nào tốt,
và phải cử khởi công vào những
ngày xấu:
"tam nương!"
Không thờ Chúa, người ta đi trong tối tăm. Trong
Đức
Chúa Giê su "có sự sống, sự sống
là sự
sáng của loài người." (Giăng 1:4). Nhưng người ta
không thờ phượng Ngài, cho nên họ
không
có sự sáng, và cũng không
được sự sống
mà trái lại họ phải đối diện với sự chết. Kinh
Thánh nói: "Sự chết đã trải qua
trên hết
thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội."
(Rô ma
5:12). Sự chết của tội nhơn mà Kinh Thánh
nói ở
đây không những nói về sự chết thể
xác
mà còn nói về sự hư mất linh hồn trong
Hồ lửa
hình phạt đời đời.
Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, vì thấy
tình cảnh đau
thương của người Việt Nam, Ngài đã sai
các
tôi tớ của Ngài là những
Giáo sĩ đến
Việt Nam, để rao giảng tình yêu thương của Đức
Chúa
Trời cho người Việt Nam biết là: dù "mọi người
đều
đã phạm tội" (Rô ma 3:23), nhưng "Đức
Chúa Trời tỏ
lòng yêu thương Ngài đối với
chúng ta, khi
chúng ta còn là người có
tội, thì
Đấng Christ vì chúng ta chịu chết" (Rô
ma 5:8),
"hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời."
(Giăng
3:15).
Đây là Tin lành quý
báu mà
Quý vị Giáo sĩ, Quý Cụ Mục sư
tiên phong
và Quý vị Mục sư nối tiếp ngày nay
đã
và đang giảng dạy cho dân Việt Nam của
chúng ta
biết, để họ tin Đức Chúa Giê su.
Cảm tạ ơn Đức Chúa Giê su, dù cho trong
A-đam mọi
người đều chết, thì trong Ngài "mọi người đều sẽ
sống
lại." (1 Cô 15:22). Bởi đó Phao lô lớn
tiếng hỏi
rằng: "Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết,
cái nọc của mầy ở đâu?" (1 Cô rinh
tô 15:55).
Để trả lời câu hỏi nầy, Ông vui mừng ca ngợi
Chúa
Cứu Thế Giê su rằng: "Tạ ơn Đức Chúa Trời
đã cho
chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus
Christ." (1
Cô rinh tô 15:57). Những con dân của Đức
Chúa
Giê dù đã chết đều sẽ được sống lại như
lời của
Ngài phán về những người hết lòng tin
rằng: "Ta sẽ
làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt." (Giăng
6:40).
Vậy thì bởi ơn yêu thương của Đức Chúa
Trời,
Ngài đã ban cho chúng ta Con Một của
Ngài
là Đức Chúa Giê su Christ, trong
Ngài
"chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha
tội,
theo sự dư dật của ân điển Ngài." (Ê
phê
sô 1:7).
Chúng ta được phước Chúa ban, mỗi
chúng ta hết
lòng cảm tạ ơn Ngài, vậy thì
chúng ta
làm gì để bày tỏ tấm lòng
biết ơn
Chúa?
III.- LÀM
CÔNG VIỆC CHÚA CÁCH DƯ DẬT:
Phao lô khuyên mỗi chúng ta rằng: "Hỡi
anh em
yêu dấu của tôi, hãy vững
vàng, chớ
rúng động, hãy làm công việc
Chúa
cách dư dật luôn, vì biết rằng
công
khó của anh em trong Chúa chẳng phải
là vô
ích đâu." (1 Cô 15:58).
Công việc Chúa, có thể là
những việc như:
dâng mình hầu việc Chúa, tham gia
vào Ban
Chấp sự, Ban Trường Chúa nhật, Ban Thanh
niên, Ban
hướng dẫn Thiếu niên, Ban Chứng Đạo hoặc là
Ban Tu bổ
nhà thờ, hoặc dâng tiền vào quỹ Hội
Thánh
v.v... Chúng ta có thể nói: tham gia
vào
những công việc phục vụ Chúa
thì việc
gì cũng tốt cả. Nhưng xin đừng quên là
hãy
suy nghĩ đến việc phát triển Ban Chứng Đạo và
chính mình hãy học biết
cách làm
chứng đạo để dẫn đưa những người chưa biết Chúa đến với
Ngài để họ nhờ Chúa mà được cứu như
chúng
ta.
Mỗi chúng ta đều học biết rằng Đức Chúa
Giê su
đã từ giả ngôi cao sang ở Thiên
đàng "đến
trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội." (1 Ti mô
thê
1:15). Khi Ngài đã chịu chết và sống
lại, trước
khi về trời, Ngài đã phán dặn những
lời cuối
quý báu. Một trong những lời cuối đó
là:
"Khi Đức Thánh Linh giáng trên
các ngươi,
thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép,
và
làm chứng về ta tại thành
Giê-ru-sa-lem, cả xứ
Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái
đất." (Sứ đồ
1:8). Tấm lòng của Đức Chúa Giê su
đã
bày tỏ cho chúng ta biết rõ
ràng rằng
Ngài rất quý linh hồn tội nhơn, dù họ
bị lạc
loài. Ngài tìm kiếm họ như người chăn
tìm
"con chiên bị mất." (Lu ca 15:6b). Cho nên mỗi
chúng
ta nên vâng phục Đức Chúa Giê
su bước
vào "đồng ruộng đã vàng" (Giăng 4:35),
để gặt kết
quả tốt đem về cho Chúa. Điều nầy rất đẹp lòng
Đức
Chúa Trời như Lời Ngài phán rằng:
"Những kẻ dắt
đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng
láng
như các ngôi sao đời đời mãi
mãi." (Đa ni
ên 12:3).
Kỷ niệm một trăm năm Tin Lành đến Việt Nam, cầu xin Đức
Chúa Trời ban ơn cho chúng ta là những
người biết
ơn và là những chứng nhân đắc lực của
Đức
Chúa Giê su, sẵn sàng giới thiệu
tình
yêu cứu rỗi của Ngài cho nhiều người, để họ tin
nhận
Ngài và được cứu hầu cho Danh Chúa cả
sáng.
A-men.
Đuốc
Thiêng 104
01
Khắc phụng
bản năng - ĐTPÂ
02
Hãy
cảm tạ Chúa -
Mục sư Nguyễn Văn
Bình
03
Thơ: Kỷ
niệm 100 năm Tin Lành Việt Nam - Trần
Nguyên Lam Bửu
04
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (1/4)
- Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Thơ: 100
năm kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
06
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (2/4) - Mục sư Nguyễn Văn
Bình
07
Thơ: Tạ ơn
Chúa 100 năm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
08
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (3/4)
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Người nữ
khôn ngoan
- Bà MS Nguyễn Văn Bình
10
Lịch sử
100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn
Văn Bình
11
Nỗi
lòng người đầy tớ Chúa - Bà
Lê Văn Bắc
12 Một trăm
năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu
Thành
13
Thử
hình dung con tàu Nôê của
những ngày sắp đến
- Dr Trương Hoàng Lâm
14
Tin Tức
- Vinh Bằng
15
Thơ:
Không tiếc, mãi yêu
- Võ Chánh Tiết