Hãy
cảm tạ Chúa - Mục sư Nguyễn Văn Bình
Đuốc Thiêng
104, năm 2011
«Hãy
cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần, vì
sự nhơn từ
Ngài còn đến đời đời. Hãy cảm tạ
Chúa của
muôn chúa, vì sự nhơn từ
Ngài còn đến
đời đời» (Thi thiên 136:2-3).
Có một câu chuyện kể rằng: Một ngày kia
Đức
Chúa Trời sai hai thiên sứ xuống trần gian, một vị
được
giao phó đi thu những lời cầu xin, và vị thứ hai
đi thu
góp những lời cảm tạ của con cái Chúa
trong khắp
các Hội thánh. Chỉ trong vài tiếng
đồng hồ, vị
thiên sứ thứ nhứt trở về với một bao đầy ắp những lời cầu
xin, ra
mắt Chúa.
Chúa hỏi:
-Sao ngươi trở về nhanh thế?
-Thưa Chúa, con mới chỉ đi qua vài Hội
thánh
thôi, mà những lời cầu xin đã đầy bao
rồi,
vác nặng quá, con phải về sớm trình
lên
Chúa.
Nhưng vị thiên sứ thứ hai đi từ Hội thánh nầy tới
Hội
thánh khác, ngày nầy qua
ngày kia, suốt cả
tuần lễ mà chỉ thu góp được vài ba
chục lời cảm
tạ, buồn bã trở về thưa với Chúa:
-Lạy Chúa, con cái Chúa ở trần gian
nơi nào
cũng cầu xin, cầu xin và cầu xin, dù
Ngài ban cho
họ rất nhiều, song họ rất ít cảm tạ những gì
Ngài
ban cho họ quá. Xin Chúa sai đầy tớ
Ngài ở trần
gian hết lòng dạy cho họ biết
«Hãy cảm tạ
Chúa».
Ý thức sự cảm tạ Chúa là
bày tỏ sự biết ơn
và lòng tôn cao Chúa,
không thể thiếu
được nơi cộng đồng con dân Chúa, nên
trước giả Thi
thiên 136 đã viết lên những lời nhằm
khuyên
con dân Chúa «Hãy cảm tạ
Chúa».
Ngay ở câu đầu, trước giả viết: «Hãy cảm
tạ Đức
Giêhôva» và ở câu
chót trước giả
lại viết: «Hãy cảm tạ Đức Chúa
Trời».
Toàn bộ Thi thiên 136, từ đầu tới cuối, trước giả
khuyên hết thảy con dân Chúa
«Hãy cảm
tạ Đức Chúa Trời của các thần» (Thi
136:2),
«Hãy cảm tạ Chúa của muôn
Chúa»
(Thi 136:3), «Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời
của
các từng trời» (Thi 136:26). Lý do tại
sao
chúng ta phải cảm tạ Chúa? Thi thiên
136, trước giả
nêu lên cho chúng ta thấy có
4 lý do
mà mọi con dân Chúa phải cảm tạ
Chúa:
I.
Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài
là thiện (c.1)
Lý do thứ nhứt chúng ta phải cảm tạ
Chúa,
vì Chúa là thiện. Thi 136:1 viết:
«Hãy cảm tạ Đức Giêhôva,
vì Ngài
là thiện». Chúng ta cảm tạ
Chúa, vì
Chúa là thiện.
Trong thần học, khi luận về Đức Chúa Trời, có hai
phân biệt rõ ràng. Trước tiên
nói về
các thuộc tánh của Đức Chúa Trời
và sau
đó nói về các mỹ đức của
Ngài. Các
mỹ đức của Đức Chúa Trời gồm có đức
thánh khiết,
đức công nghĩa, đức nhân ái, đức
chân thật
và sự thành tín của Ngài.
Đây
là những mỹ đức mà Kinh thánh
khuyên con
dân Chúa phải đạt đến cho kỳ được dù
với mức độ
tương đối để trở nên càng giống như
Ngài hơn. Trong
khi đó, các thuộc tánh của Đức
Chúa Trời
là bản tánh thuộc riêng về
Ngài mà
không người trần nào có thể sở hữu
được. Các
thuộc tánh đó là: Đức Chúa
Trời là
Đấng thần linh, là Đấng tự hữu hằng hữu, là Đấng
vô
hạn vô lượng, là Đấng vô sở bất năng,
vô sở
bất tri, vô sở bất tại, là Đấng vô thời
biến cải,
là Đấng thuần nhất vô phân.
Ngài là
Đức Chúa Trời của các thần,
là Chúa
của muôn chúa, là Đức Chúa
Trời của
các từng trời, đúng như Thi thiên 136
đã đề
cập tới. Giữa các thuộc tánh và mỹ đức
của Đức
Chúa Trời đó, có một bản
tánh mà
chúng ta cần phải lưu ý, đó
là bản
tánh thiện lành của Ngài. Kinh
thánh nhấn
mạnh: «vì Ngài là
thiện».
Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng
chí thiện,
chí thánh, chí công, thiện
tâm, thiện
lành, thiện mỹ, thiện hảo. Trong Ngài
không hề
có điều ác nào, cũng không
hề có tội
lỗi nào, không có sự sai quấy, lầm lạc
nào,
không có bất công
thiên lệch nào
và cũng không hề có bất hảo hay sơ xuất
nào.
Ngài là thiện, chí thiện, trọn
lành
và toàn hảo. Tất cả những tuyệt hảo,
toàn thiện
đều ở trong Ngài. Ngài là tuyệt đỉnh
của những
toàn thiện và toàn hảo mà
không ai
đạt đến hay thần nào có được. Loài
người
chúng ta, ngay cả các giáo chủ của
các
tôn giáo đều là vật thọ tạo của Đức
Chúa
Trời, do hậu quả của tội lỗi từ Ađam, làm cho «mọi
người
đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức
Chúa
Trời» (Rô 3:23), đến nỗi Kinh thánh phải
thất vọng
kêu lên: «Chẳng có một người
công
bình nào hết, dẫu một người cũng
không…chúng nó đều sai lạc
cả, chẳng
có một người làm điều lành, dẫu một
người cũng
không» (Rô 3:10,12). Do đó
loài người,
trong đó có chúng ta đều là
những
phàm nhân bất toàn, bất thiện, song Đức
Chúa
Trời chúng ta là Đức Chúa Trời
toàn thiện,
chí thiện. Trước ngôi Ngài tất cả
các
sêraphin đều phải kêu lên:
«Thánh thay,
thánh thay, thánh thay là Đức
Giêhôva
vạn quân» (Êsai 6:3), để tôn
vinh và cảm
tạ Ngài. Trước vinh quang của Chúa, mỗi
chúng ta
ngày đêm đều phải luôn luôn
ngợi khen,
tôn vinh và cảm tạ Ngài.
Chúa là
thiện, không ai là thiện, nên
chúng ta
«hãy cảm tạ Chúa». Nếu
Ngài
không phải là thiện, không phải
là chí
thiện, chúng ta sẽ là nạn nhân của
Ngài.
Chúng ta sẽ kêu la, than thở, oán
trách
Ngài, song vì Ngài là
thiện, là
chí thiện, nên chúng ta phải phủ phục
dưới
chân Ngài mà cảm tạ Ngài.
Chúng ta
phải cực lực chống cự các thần dữ ở các miền
trên
trời, chúng ta phải mang mọi khí giới để địch
cùng
mưu kế của ma quỉ (Êph 6:11-12), nhưng đối với Đức
Chúa
Trời, chúng ta phải hết lòng cảm tạ
Ngài,
vì Ngài là Đấng thiện lành.
Trước giả Thi
thiên 136:1 cũng nói thế:
«Hãy cảm tạ Đức
Giêhôva, vì Ngài
là thiện».
Chúng ta cũng nên nói như thế
hôm nay:
«Hãy cảm tạ mà vào
các cửa
Ngài, hãy ngợi khen mà vào
hành lang
Ngài, khá cảm tạ Ngài, chúc
tụng danh của
Ngài. Vì Đức Giêhôva
là thiện»
(Thi 100:4-5).
II.
Hãy cảm tạ Chúa, vì sự nhân
từ Ngài còn đến đời đời (c.2-3)
Lý do thứ hai mà trước giả Thi thiên
136 nhắc nhở
chúng ta «hãy cảm tạ
Chúa», là
«vì sự nhân từ Ngài
còn đến đời
đời» được ghi trong Thi thiên 136:2-3 như sau:
«Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của
các thần,
vì sự nhân từ Ngài còn đến
đời đời.
Hãy cảm tạ Chúa của muôn
chúa, vì sự
nhân từ Ngài còn đến đời
đời». Rồi kể từ
câu 4 trở đi cho tới hết đoạn, tức từ câu 4 đến
câu
26, cụm từ «vì sự nhân từ
Ngài còn đến
đời đời» trở thành điệp khúc cho mỗi
câu nhắc
đi nhắc lại mãi để kêu gọi chúng ta
«hãy cảm tạ Chúa».
Chúng ta phải cảm
tạ Chúa, lý do tại sao? «Vì
sự nhân từ
Ngài còn đến đời đời». Đức
Chúa Trời
chúng ta là Đấng nhân từ. Sự
nhân từ
Ngài không bị giới hạn bởi không gian
hoặc thời
gian. Sự nhân từ Ngài bất biến song song với sự
thực hữu
của Ngài, nghĩa là còn đến đời đời. Sự
nhân
từ của Chúa không phải là sự
nhân từ cơ hội,
hoặc tạm thời hay giai đoạn, mà là sự
nhân từ đời
đời không hề gián đoạn, không hề chấm
dứt,
«Ngài đã yêu kẻ thuộc về
mình trong
thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối
cùng»
(Giăng 13:1).
Nhơn từ là lòng thương người, nhưng
không phải
là thứ tình thương lý thuyết,
mà là
tình yêu biến thành hành
động sẵn
sàng làm ơn, sẵn sàng cứu
giúp, đồng thời
có lòng quảng đại, độ lượng tha thứ những lỗi lầm
của kẻ
khác. «Từ» là lòng
thương, nhưng
«nhân» trong từ ngữ nầy không
phải là
người nằm hay ngồi, mà «nhân»
trong Hán
Việt là chữ «nhân đứng, và
thêm chữ nhị
nằm bên phải như hai bàn tay giơ ra chia xẻ
và cứu
giúp người khác». Yêu thương
mà
không cứu giúp không phải là
nhân từ.
Cứu giúp mà không có từ
tâm, cũng
không phải là nhân từ. Hiền
lành mà
thiếu làm ơn cứu giúp cũng không được
kể là
nhân từ. Yêu thương mà không
độ lượng, tha thứ
những lỗi lầm của người khác cũng không phải
nhân
từ. Nhân từ là tình yêu
thương sẵn
sàng hy sinh cứu giúp kẻ khác
không
phân biệt ai với tất cả từ tâm của mình
đồng thời độ
lượng tha thứ những lỗi lầm mà người khác
xúc phạm
đến mình. Đức Chúa Trời là Đấng
nhân từ,
vì Ngài yêu thương độ lượng tha thứ tội
lỗi cho
những ai ăn năn, và làm ơn cho loài
người
không phân biệt ai cả. «Ngài
khiến mặt trời
mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành,
làm mưa cho
kẻ công bình cùng kẻ độc
ác» (Mathiơ
5:45), Ngài «làm ơn đến ngàn
đời cho những
kẻ yêu mến Ngài và giữ các
điều răn
Ngài» (Xuất 20:6).
Đức công chính của Chúa không
dung tha tội
lỗi, nhưng đức yêu thương nhân từ của
Ngài sẵn
sàng tha thứ và cứu giúp những kẻ khổ
đau, đầy tội
lỗi biết ăn năn thống hối quay về với Ngài.
Sách Giôna là một sách đặc
biệt ký
thuật về lòng nhân từ của Đức Chúa
Trời. Một lần
kia, Đức Chúa Trời quyết định hủy diệt thành
Ninive từ
vua quan đến dân chúng cùng cả
loài
súc vật trong thành nếu dân
thành
không chịu ăn năn tội lỗi của họ. Bởi
lòng nhơn từ,
Đức Chúa Trời liền sai tiên tri Giôna
đến Ninive rao
giảng về sứ điệp ăn năn kêu gọi dân
thành hối cải.
Thế nhưng Giôna vì danh dự cá
nhân và
dân tộc, muốn dân thành bị
tiêu diệt để trừ
hậu hoạn, nên không muốn đi tới đó giảng
đạo,
trái lại xuống thuyền trốn đi nơi khác. Song Đức
Chúa Trời là Đức Chúa Trời
nhân từ đã
bắt Giôna phải đến đó với sứ điệp
«còn 40
ngày nữa Ninive sẽ bị đổ xuống». Ông
không
muốn giảng, dù có giảng cũng là miễn
cưỡng.
Ông không muốn dân thành ăn
năn để được tha
thứ, để được giải cứu. Thế nhưng, khi nghe sứ điệp ấy,
«Dân
thành Ninive tin Đức Chúa Trời. họ rao ra sự
kiêng
ăn và mặc bao gai, từ những người rất lớn trong
đám họ
cho đến những kẻ rất nhỏ. Tin ấy đồn đến vua Ninive, vua đứng dậy khỏi
ngai, lột áo bào mình ra, quấn bao gai
và
ngồi trong tro. Đoạn vua truyền lệnh nầy ra trong thành
Ninive
như là lời dụ của vua cùng của các kẻ
tôn
trưởng : Không luận người ta hay thú vật,
không luận
bầy bò hay bầy chiên, đều chớ nếm chi hết.
Không
được để cho nó ăn, cũng không uống nước, nhưng
người ta
và thú vật đều phải quấn bao gai. Mọi người
khá ra
sức kêu cùng Đức Chúa Trời, phải, ai
nấy khá
bỏ đường lối xấu mình và việc hung dữ của tay
mình» (Giôna 3:5-8). Vậy là
tất cả đều năn
năn thống hối kêu cứu cùng Đức Chúa
Trời. Và
Đức Chúa Trời nhân từ đã cứu họ,
thành
không bị hủy diệt. Họ được thoát chết.
Thế nhưng Giôna, vị tiên tri giảng đạo
không
hài lòng, trái lại giận dữ.
Có lẽ ông
nghĩ, tại sao một dân tộc hung dữ, gian ác,
hành hạ
dân Ysơraên của Ngài như vậy
mà
Ngài không hủy diệt mà lại cứu họ?
Ông tức
giận đến nỗi xin Đức Chúa Trời cho mình chết đi
để khỏi
thấy kẻ thù được sống. Trong cơn nóng bức,
không
chịu nỗi, Đức Chúa Trời cho một dây dưa mọc
lên che
bóng mát, Giôna thích lắm.
Thế nhưng
hôm sau, một con sâu chích
vào dây dưa
làm cho nó héo đi. Mặt trời mọc
lên,
gió cháy rọi xuống đầu làm
ông chịu
không nỗi, ông lại càng tức giận hơn,
rồi bị ngất
đi. Khi tỉnh lại, ông tiếp tục đòi chết. Đức
Chúa
Trời bèn phán cùng Giôna
rằng:
-Ngươi nổi giận vì cớ dây nầy có
nên không?
Người thưa rằng:
-Tôi giận cho đến chết cũng phải lắm.
Đức Giêhôva lại phán:
-Ngươi hối tiếc một dây mà ngươi chưa hề
khó nhọc
vì nó, ngươi không làm cho
nó mọc,
một đêm thấy nó sanh ra và một
đêm thấy
nó chết. Còn ta há không
đoái tiếc
thành lớn Ninive, trong đó có hơn 12
vạn người
không biết phân biệt tay hữu và tay tả,
lại với một
số thú vật rất nhiều hay sao? (Giôna 4:9-11).
Giôna là một tiên tri thiếu
nhân từ,
đáng ra phải nói rằng, ông
là một người
không có lòng nhân từ. Giảng
đạo mà
không nhân từ thì chết còn
hơn sống.
Đó là lý do ông cứ
đòi chết. Biết lời
Chúa nhưng thiếu nhân từ chỉ làm
trò cười
cho thiên hạ. Yêu thương mà
không làm
ơn, không cứu giúp kẻ khốn cùng thiếu
thốn
là thứ tình thương giả hình
mà thôi.
Song chúng ta phải lớn tiếng cảm tạ Chúa,
vì Đức
Chúa Trời chúng ta là Đấng
nhân từ
chí nhân chí ái. Sự
nhân từ
Ngài còn đến đời đời không hề phai
tàn.
Ngài cung cấp mọi cần nhu cho chúng ta hằng
ngày,
bồng ẵm, nuôi nấng chúng ta khác
nào người
cha chăm sóc con yêu dấu của mình,
Ngài
gìn giữ chúng ta như con ngươi của mắt
Ngài,
và sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng ban ơn
cho bất cứ ai
ăn năn thống hối quay về với Ngài. Ngài
đã
làm việc đó cho dân thành
Ninive, và
chắc chắn Ngài cũng sẽ làm việc đó cho
mỗi
chúng ta. Tiên tri Michê nói:
«Ai
là Đức Chúa Trời giống như Ngài, tha
thứ sự gian
ác và bỏ qua sự phạm pháp của
dân sót
của sản nghiệp Ngài? Ngài không cưu
giận đời đời,
vì Ngài lấy sự nhân từ làm
vui thích.
Ngài sẽ còn thương xót
chúng tôi, dập
sự gian ác chúng tôi dưới
chân Ngài,
và ném hết thảy tội lỗi chúng
nó xuống
đáy biển. Ngài sẽ làm ra sự
chân thật cho
Giacốp và sự nhân từ cho Ápraham,
là điều
Ngài đã thề hứa cho tổ phụ chúng
tôi từ
những ngày xưa» (Michê 7:18-20).
Đôi
lúc chúng ta thấy dường như Đức Chúa
Trời
lìa bỏ chúng ta, không còn
yêu thương
chúng ta nữa, nhưng thực ra Chúa nhơn từ vẫn
thương
yêu, chẳng hề bỏ chúng ta bao giờ. Êsai
54:7-8
Chúa phán: «Ta đã bỏ ngươi
trong một
lát, nhưng ta sẽ lấy lòng thương xót
cả thể
mà thâu ngươi lại. Trong cơn nóng giận,
ta ẩn mặt
với ngươi một lúc, nhưng vì lòng
nhân từ
vô cùng, ta sẽ thương đến ngươi, Đấng cứu chuộc
ngươi
là Đức Giêhôva phán
vậy». Rồi
Ngài xác quyết ở trong Êsai 54:10 :
«Dầu
núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng
nhân từ ta đối
với ngươi chẳng dời khỏi ngươi, lời giao ước bình an của ta
chẳng chuyển, Đức Giêhôva là Đấng thương
xót
ngươi, phán vậy». Dù chúng
ta thể
nào, Đức Chúa Trời vẫn luôn
luôn nhân
từ đối với chúng ta, và «Vì
sự nhân từ
Ngài còn đến đời đời», nên
chúng ta ai
nấy «hãy cảm tạ Chúa».
III.
Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài
làm nên những phép lạ lớn lao (c.4)
Lý do thứ 3 mà chúng ta phải cảm tạ
Chúa
là vì Ngài làm những
phép lạ lớn
lao. Thi thiên 136:4 chép: «Chỉ một
mình
Ngài làm nên các
phép lạ lớn
lao». Rồi từ câu 5 đến câu 22, trước giả
Thi
thiên 136 đã kể ra rất nhiều phép lạ
lớn lao
mà Chúa đã làm.
Nào là Đức
Chúa Trời nhờ sự khôn sáng
mà dựng nên
các từng trời (c.5), Ngài trương đất ra
trên
các nước (c.6), Ngài dựng nên những
vì
sáng lớn (c.7), Ngài dựng nên mặt trời
đặng cai trị
ban ngày, mặt trăng và các
ngôi sao đặng cai
trị ban đêm (c.8-9), Ngài dùng
cánh tay
quyền năng Ngài cứu dân Ysơraên ra khỏi
Êdíptô (c.10-12), Ngài
phân Biển Đỏ ra
làm hai, khiến Ysơraên đi qua khỏi biển ấy,
và
xô Pharaôn cùng cả đạo quân
người xuống biển
đỏ (c.13-15), Ngài dẫn dân sự qua đồng vắng,
đánh
bại các vua lớn (c.17-20), Ngài ban xứ Canaan cho
Ysơraên làm sản nghiệp (c.21-22). Tất cả đều do
phép lạ lớn lao Chúa làm, chẳng ai
có thể
làm được những việc như thế. «Chỉ một
mình
Ngài làm nên các
phép lạ lớn
lao». Đó là lý do trước giả
Thi thiên
cảm tạ Chúa.
Có một giáo viên nọ không tin
vào
phép lạ. Một lần kia trong lúc giảng
bài, cô
nói:
-Ở trên đời nầy không hề có
phép lạ. Chẳng
hạn như dân Ysơraên vượt qua Biển Đỏ,
làm gì
có ai làm cho nước biển vẹt ra làm
đường cho
dân Ysơraên đi qua, chỉ vì chỗ họ đi qua
đó
nước cạn chỉ sấp sỉ vài ba tấc thôi,
không sâu
lắm.
Nhưng có một em học sinh giơ tay lên có
ý kiến. Em nói:
-Cảm tạ Chúa vì đã có một
phép lạ.
Cô giáo hỏi:
-Phép lạ gì?
Em bình tỉnh trả lời:
-Thưa cô, vì theo cô nói nước
chỉ sấp sỉ
vài ba tấc thôi mà đã
làm cho cả
đoàn quân của Pharaôn gồm người, ngựa,
xe cộ đuổi
theo chết chìm dưới biển. Đó chẳng phải
là một
phép lạ lớn lao nữa sao?
Cô giáo vô tín nầy
không tin Đức
Chúa Trời có thể làm nên
những phép
lạ lớn lao, nhưng chúng ta cảm tạ Chúa,
vì
Ngài quả thật đã làm nên
những phép
lạ lớn lao, chẳng những qua công cuộc tạo hóa
và
qua dân Ysơraên của Ngài, nhưng
Ngài cũng
làm những phép lạ lớn lao qua mỗi cuộc đời
chúng
ta và qua Hội thánh Ngài tại Việt Nam
và
tại Âu Châu nầy.
Có thể nói, trước năm 1911, người Việt Nam chưa
hề biết
Tin Lành. Giữa một xã hội thờ hình
tượng,
bái vật giáo mê tín dị đoan,
vây
kín bởi tam giáo: Phật giáo, Khổng
giáo
và Lão giáo và tập tục thờ
cúng tổ
tiên ăn sâu vào đất nước dân
tộc ngót
gần 2000 năm dẫn dân tộc xa cách Chúa,
làm
sao Tin Lành cứu rỗi của Chúa có thể
phá
thủng bức tường kiên cố ấy được? Dưới con mắt loài
người
không ai nghĩ sẽ có Hội Thánh Tin
Lành
trên đất nước Việt Nam. Nhưng cảm tạ Chúa, khởi từ
năm
1911, một số giáo sĩ ít oi trong Hội Truyền
Giáo
Phước Âm Liên Hiệp (CMA) đến Đà Nẵng,
miền Trung
Việt Nam. Công tác truyền giáo
lúc bấy giờ
phải đối đầu với muôn vàn khó khăn. Họ
phải học
tiếng Việt, phải đối diện với sự cấm giảng đạo của người
Pháp
và triều đình Việt Nam, cấm không cho
đạo mới
nào rao giảng ngoài giáo hội
Công
Giáo La Mã theo các hòa ước
ký giữa
Pháp và triều đình Việt Nam.
Ngoài ra,
trong 2 cuộc thế chiến thứ nhất (1918-1919) và thứ hai
(1939-1945), các giáo sĩ còn bị nghi
kỵ làm
gián điệp cho Đức vào thế chiến thứ nhất, một số
bị trục
xuất, hầu hết những người còn lại vào thế chiến
thứ hai
bị bắt tập trung tại Mỹ Tho như những tù nhân
chiến tranh,
cuối cùng buộc phải lìa Việt Nam về xứ
mình. Chưa
hết, các giáo sĩ cùng Hội
thánh sơ khởi sau
nầy còn trải qua những cuộc chiến khác: 9 năm
kháng chiến chống Pháp giành độc lập
của mặt trận
Việt Minh (1945-1954), và cuộc nội chiến dằn dai
chết
chóc lớn nhất lịch sử (1954-1975) giữa miền Bắc với Miền
Nam,
bom đạn tàn phá đất nước, tang thương khổ đau
chưa từng
thấy, hằng triệu người chết cả hai bên chiến tuyến, nhiều
nhà thờ bị sập đỗ, nhiều đầy tớ con cái
Chúa bị
chết. Chỉ kể qua thôi, không ai nghĩ Hội
thánh Tin
Lành Việt Nam làm sao có thể tồn tại
được? Thế
nhưng Đức Chúa Trời đã làm
nên những
phép lạ lớn lao. Năm 1911, có một người
tên Nguyễn
văn Phúc đầu tiên cầu nguyện tin Chúa
tại Đà
Nẵng. Lần lần có thêm những người khác
tin
Chúa nữa. Hội thánh Đà Nẵng được
thành lập,
rồi lan ra tới Hội An. Chẳng bao lâu Tin lành được
truyền
đến Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam. Hội thánh
được
thành lập khắp nơi. Tới năm 1975, số tín hữu Tin
Lành Miền Nam vào khoảng 146.089 người, với 530
chi hội,
và có 512 Mục sư, Truyền đạo, Truyền đạo sinh,
còn
Hội thánh Miền Bắc chỉ có vào khoảng
trên
dưới 5.000 người với 14 nhà thờ và khoảng 14 Mục
sư
và giảng sư.
Kể từ khi đất nước thoát khỏi chiến tranh đến nay
(1975-2011),
trải qua 36 năm, không một giáo sĩ nào
được
phép trở lại Việt Nam phục vụ Chúa nữa, nhiều
nhà
thờ và cơ sở của Hội thánh bị đóng cửa
hoặc bi
tịch biên, nhiều đầy tớ con cái Chúa bị
tù
đày hoặc đi học tập cải tạo, công cuộc truyền
giáo
chỉ còn tồn tại trong nhà thờ, việc phổ biến Tin
Lành bên ngoài nhà thờ đều
bị nghiêm
cấm. Các đầy tớ Chúa phải hy sinh và
can đảm chịu
đựng mọi khó khăn, thiếu thốn, con cái
Chúa liều
mình giữ vững đức tin theo gương khổ nạn của tín
đồ dưới
thời đế quốc La Mã xưa. Đây là thời kỳ
khó
khăn hơn tất cả các thời kỳ mà Hội
thánh Tin
Lành Việt Nam gặp phải. Thế nhưng bởi quyền phép
lớn lao
của Chúa không thế lực nào
có thể cản ngăn
được. Biển đỏ còn phải vẹt ra làm
thành
hành lang khô cạn cho dân
Ysơraên đi qua, bao
vua chúa ngăn bước tiến Ysơraên trên
đường
vào đất hứa cũng không sao ngăn cản được. Lạ thay,
đây là thời kỳ mà Tin Lành
Việt Nam
phát triển nhất trong các thời kỳ tại Việt Nam.
Nếu
Chúa không làm nên những
phép lạ lớn
lao, thì Tin Lành không thể
nào tồn tại
được.Tính đến thời điểm nầy, Hội thánh
Chúa tại
Miền Nam có trên 1.000.000 tín đồ, với
2.000 chi
hội và chi hội nhánh, có 800 Mục sư,
Truyền đạo,
còn ở Miền Bắc do phép lạ của Chúa
có
200.000 người Hmong tin Chúa qua đài
phát thanh
Nguồn Sống nâng số tín đồ lên hơn
200.000 người với
14 nhà thờ và 14 Mục sư, Truyền đạo,
cùng 981 điểm
nhóm do 981 quản nhiệm chăm sóc.
Chỉ với Hội thánh Tin Lành Việt Nam thuộc Hội
Truyền
giáo Phước Âm Liên Hiệp thôi,
số tín đồ
lên đến hơn 1.200.000 người, trong 100 năm, thật
là
phép lạ lớn lao của Chúa. Nếu có ai về
Việt Nam
tham dự Đại Lễ Kỷ Niệm 100 Năm Tin Lành Truyền Đến Việt Nam
trong tháng 6-2011 vừa qua, chứng kiến đoàn
dân
Chúa về dự lễ tại Đà Nẵng, tại Hà Nội
và
tại Sàigòn, sẽ cảm tạ Chúa về việc
Chúa
làm cho Tin Lành tại Việt Nam. Hàng
chục
ngàn con dân Chúa vui mừng dự lễ. Chỉ
trong khoảng
thời gian ngắn ngủi của những ngày lễ nầy thôi
mà
có hơn 3.000 người tin Chúa thêm
vào Hội
thánh. Thật, chỉ một mình Chúa
dã
làm nên những phép lạ lớn lao, như
Thiên
thiên 136 đã nói đến.
Trước năm 1975, ở hải ngoại chưa có Hội thánh Tin
Lành người Việt nào, ngoại trừ một
nhóm tín
hữu nhỏ ở Paris (Pháp) vào năm 1973. Thế
mà từ năm
1975, Đức Chúa Trời làm nên những
phép lạ
lớn lao, Hội thánh Tin lành Việt Nam
tràn lan qua
Hoa kỳ, Gia Nã Đại thuộc Mỹ Châu, qua Âu
Châu,
qua Úc Châu, qua Á Châu,
có hơn 500
Hội thánh được thành lập, hơn 30.000
tín đồ
và khoảng 600 Mục sư, Truyền đạo chăm sóc bầy
chiên
của Chúa ở hải ngoại. Thật là một phép
lạ
không ngờ đối với mọi người.
Riêng tại Âu Châu, kể từ năm 1982, Hội
thánh
Tin Lành Việt Nam Âu Châu khởi sự được
thành
lập, Đại Hội Tin Lành Việt Nam Âu Châu
lần đầu
tiên được tổ chức tại Louvain (Bỉ) vào năm 1985,
và
kể từ đó tới nay liên tục mỗi năm đều
có Đại Hội
Tin Lành Việt Nam Âu Châu như
đã thấy
hôm nay, với số tín hữu khoảng 3.000 người gồm
trong
các hệ phái, có khoảng 42 Hội
thánh lớn nhỏ
và Mục sư, Truyền đạo gần 50 người. Thật là
phép
lạ lớn lao Chúa làm. Đó là
lý do
khiến chúng ta «hãy cảm tạ
Chúa».
IV.
Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài
nhớ đến bực hèn hạ chúng ta (c.23)
Lý do thứ tư cũng là lý do
chót theo Thi
thiên 136 mà chúng ta phải cảm tạ
Chúa,
là vì Ngài nhớ đến bực hèn
hạ của
chúng ta, như được chép trong Thi thiên
136:23 như
sau: «Ngài nhớ đến bực hèn hạ
chúng
tôi».
Đavít khi nghĩ đến địa vị hèn hạ của
mình trước
oai nghi cao cả của Đức Chúa Trời, đã phải thốt
lên: «Loài người là
gì mà
Chúa nhớ đến? Con loài người là chi,
mà
Chúa thăm viếng nó» (Thi 8:4).
Đavít cũng
như chúng ta, đều là những phàm
nhân, phạm
nhiều tội lỗi trước mặt Chúa. Chúng ta
là những kẻ
hèn hạ, không xứng đáng để được
Chúa nhớ
đến. Địa ngục và lửa đời đang chờ chúng ta. Nhưng
cảm tạ
Chúa, Ngài nhớ đến bực hèn hạ của
chúng ta,
đã sai Con độc Sanh Ngài đến trần gian
tìm
và cứu chúng ta. Đức Chúa
Giêxu bởi
tình thương Ngài sẵn sàng
gánh hết tội lỗi
chúng ta trong thân thể Ngài,
và chịu chết
thay cho chúng ta trên thập tự giá.
Ngài đem
hết tôi lỗi chúng ta chôn vào
âm phủ
với Ngài, và rồi Ngài sống lại để xưng
công
chính cho chúng ta, khiến chúng ta
là những
kẻ tin Ngài trở thành con cái Đức
Chúa Trời
hưởng phước hạnh đời đời của Ngài cả hiện tại lẫn tương lai
cho
đến khi chúng ta bước vào thiên
đàng hưởng
phước hạnh vĩnh sinh của Ngài. Chỉ ân điển cứu rỗi
nầy
thôi cũng đủ khiến cho chúng ta phải hết
lòng cảm
tạ Ngài rồi.
Chẳng những thế thôi, trước giả Thi thiên 136
nói,
dù ông hèn hạ, đáng bị bỏ,
không
đáng được quan tâm, không cần phải được
bênh
vực, đáng phó mặc cho số phận khổ đau,
đáng để cho
ma quỉ và loài người hiếp đáp, nhưng
«Ngài giải cứu chúng tôi khỏi
kẻ cừu
địch» (c24) mà còn «ban đồ ăn
cho mọi
loài xác thịt» nữa (c25) trong
đó có
chúng ta là con cái Ngài.
Năm 1945,
Pháp bị Nhật tước khí giới, kinh tế
khó khăn,
khiến cho 2.000.000 người Việt ở Bắc kỳ chết đói thảm
thương,
thế nhưng không có một người Tin Lành
nào ở
miền Bắc chết vì đói. Đức Chúa Trời
ban đồ ăn cho
họ. Sau năm 1975, chúng ta trở thành những người
Việt tha
hương, nhưng Đức Chúa Trời nuôi chúng
ta đầy đủ
có khi còn hơn anh em chúng ta ở Việt
Nam nữa. Đức
Chúa Trời ban đồ ăn dư dật, tràn đầy cho
chúng ta
cả phần thuộc thể lẫn thuộc linh, Ngài
nuôi nấng
chúng ta lớn lên, tầm thước vóc giạc
trong
Ngài, thỏa vui suốt cả cuộc đời mình.
Vì vậy trước
giả Thi thiên 136 kêu lên
«Hãy cảm tạ
Đức Chúa Trời của các từng trời» (Thi
136:26).
Chúng ta cũng phải nói như vậy hôm nay:
«Hãy cảm tạ Chúa»,
«vì
Ngài nhớ đến bực hèn hạ chúng
tôi, giải cứu
chúng ta khỏi kẻ cừu địch và ban đồ ăn cho mọi
loài xác thịt» trong đó
có
chúng ta.
Luca 10:25-37 ký thuật cho chúng ta thấy
hình ảnh
thế nào Chúa là Đấng nhớ đến bực
hèn hạ của
loài người chúng ta.
Một lần kia, khi Đức Chúa Giêxu giảng dạy,
có một
thầy dạy luật đứng dậy hỏi đặng thử Đức Chúa Giêxu
rằng:
-Thưa thầy, tôi phải làm gì để hưởng
được sự sống đời đời?
Ngài phán rằng:
-Trong luật pháp có chép điều
gì? Ngươi đọc gì trong đó?
Thưa rằng:
-Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết
trí
mà kính mến Chúa là Đức
Chúa Trời
ngươi và yêu người lân cận như
mình.
Đức Chúa Giêxu phán rằng:
-Ngươi đáp phải lắm. Hãy làm điều
đó thì được sống.
Song thầy ấy muốn xưng mình là công
bình,
nên thưa cùng Đức Chúa Giêxu
rằng:
-Ai là người lân cận tội?
Đức Chúa Giêxu liền kể cho thầy dạy luật
câu chuyện sau đây:
Có một người từ thành Giêrusalem xuống
thành
Giêricô, dọc dường lâm vào tay
kẻ cướp.
chúng cướp lột hết đồ đạc, tư trang, tiền bạc, lại
còn
đánh cho mình mãy bị thương,
máu me đầy
mình, nửa sống nửa chết, quăng bên vệ đường, rồi
bỏ đi
không hề thương tiếc.
Một chặp sau, có một thầy tế lễ đi ngang qua, thấy một người
máu mê đầy mình rên la thảm
thiết. Nhưng
ông nghĩ: Đây không phải là
đền thờ,
không có tế lễ, không có trầm
hương nghi
ngút, không có hội chúng
quì mọp thờ
phượng, đây không phải là phận sự của
ta. Rồi lặng
lẽ bỏ đi.
Chặp sau nữa, có một người Lêvi, vốn là
những người
được chọn lo cho đền thờ đi ngang qua. Khá hơn một
chút,
ông đến gần nhìn thấy rõ hơn. Nhưng
ông lại
nghĩ: Đây chỉ là vệ đường chớ không phải
đền thờ.
Đây không có ban hát rập
ràng,
không có của dâng, không
có hội
chúng đông đúc. Đây
không phải
là phận sự của ta. Rồi người Lêvi cũng nhanh bước
rời xa.
Cuối cùng, Đức Chúa Giêxu kể,
có một người
Samari, một người thuộc dân tộc mà người Do
thái
khinh khi miệt thị, coi như một giống dân không
xứng
đáng, đi ngang qua. Nhìn thấy nạn nhân
là
một người Do thái rên la oằn oại trên
vũng
máu, động lòng thương xót,
xuống lừa,
áp lại lấy dầu và rượu rửa và xức vết
thương, băng
bó cẩn thận, rồi đỡ lên lưng lừa chở đến
nhà
quán, săn sóc thêm. Đến bữa sau,
vì
công việc phải ra đi, người Samari nhơn lành lấy 2
đơniê trao cho chủ nhà quán nhờ săn
sóc cho,
lại còn hứa nếu có tốn bao nhiêu, khi
trở về sẽ trả
thêm.
Kẻ cướp trong câu chuyện nầy chinh là ma quỉ gieo
khổ đau,
thương tích, chết chóc cho loài người,
kẻ bị cướp
chính là nhân loại nói chung
và mỗi
chúng ta nói riêng. Thầy tế lễ
và người
Lêvi không ai khác hơn là
những kẻ hầu việc
Chúa nhưng chẳng hề đoái hoài đến
những kẻ khốn
cùng, khổ đau, thiếu thốn, chẳng chút nhớ đến bực
hèn hạ của con người, không muốn giúp
ai cả, ngay
cả thăm viếng kẻ mồ côi người góa bụa, hoặc cứu
giúp kẻ bị đùa đến sự chết bằng cách
nói về
Chúa cho họ. Còn người Samari trong chuyện nầy
chính là Đức Chúa Giêxu.
Ngài
đã gởi gắm hình ảnh Ngài
vào chính
nhân vật người Samari nhơn lành nầy.
Ngài là
Đức Chúa Trời ở trên trời, nhìn thấy
loài
người tội lỗi, đau thương dưới xích xiềng ma quỉ, oằn oại
rên siếc bên vệ đường. Ngài nhớ đến bực
hèn
hạ của chúng ta. Với tình thương cao cả,
Ngài
đã lìa ngôi trời giáng thế
xuống trần gian,
có lúc bị người ta coi khinh che mặt chẳng
thèm
xem, để tìm và cứu kẻ bị hư mất. Ngài
cúi
xuống thật gần, nhìn thấy hết nỗi khổ đau của
loài người,
ôm ấp họ vào lòng, băng bó
vết thương, thoa
dầu chữa lành nhân loại, lấy công sức
chăm
sóc nhân thế, Ngài nếm trải hết nhọc
nhằn
chúng ta, và rồi Ngài sẵn
sàng chịu chết
trên thập tự giá gánh tất cả tội lỗi
cho
chúng ta. Ngài hy sinh tất cả để đưa những kẻ bị
ma quỉ
hãm hại vào «nhà
quán»
trên trời hưởng lấy phước hạnh đời của Ngài. Nhờ
sự
đoái hoài của Chúa mà
chúng ta
thoát khỏi bàn tay ác độc của ma quỉ,
được trở
thành con cái Đức Chúa Trời, được
hưởng sự sống
đời đời viên mãn trên trời.
Đó chính
là lý do chúng ta
«hãy cảm tạ
Chúa».
*Kết
luận
Luca 17:11-19 ký thuật rằng, một lần kia, Đức
Chúa
Giêxu trải qua bờ cõi xứ Galilê
và xứ Samari
để lên thành Giêrusalem. Nhằm khi
vào
làng kia, có 10 người phung đến đón
rước
Ngài, đứng từ đằng xa, lên tiếng rằng:
-Lạy Giêxu, lạy thầy, xin thương xót
chúng tôi cùng.
Khi Ngài thấy họ, liền phán rằng:
-Hãy đi, tỏ mình cùng thầy tế lễ.
Họ đương đi thì phung lành hết thảy.
Có một người
trong bọn họ thấy mình đã được sạch,
bèn trở lại,
lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời, lại đến sắp mặt xuống
đất,
nơi chân Đức Chúa Giêxu, mà
tạ ơn
Ngài. Vả, người đó là người Samari.
Đức Chúa Giêxu bèn cất tiếng
phán rằng:
-Không phải 10 người đều được sạch cả sao? Còn 9
người kia
ở đâu? Chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại ngợi
khen Đức
Chúa Trời ư?
Câu chuyện nầy cho chúng ta thấy nhiều người hưởng
được ơn
huệ của Chúa nhưng ít người biết cảm tạ
Ngài
quá. Trong 9 người không cảm tạ Chúa
có ai
trong chúng ta không? Phải chăng chúng
ta là
người cảm tạ Chúa vì những việc Chúa
làm
cho mình, như người Sammari trong câu chuyện nầy?
Mong
rằng không ai nằm trong số 9 người vô ơn đối với
Chúa, nhưng hết thảy chúng ta đều là
những người
biết ơn Chúa và cảm tạ Ngài.
Đavít
khuyên: «Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen
Đức
Giêhôva, mọi điều gì ở trong ta,
hãy ca tụng
danh thánh của Ngài. Hỡi linh hồn ta,
hãy ngợi
khen Đức Giêhôva, chớ quên các
ân huệ
của Ngài» (Thi 103:1-2).
Chúng ta cảm tạ Chúa, vì Đức
Chúa Trời
chúng ta là thiện, sự nhân từ
Ngài
còn đến đời đời, chỉ một mình Ngài
làm
nên các phép lạ lớn lao trên
đời sống
chúng ta và Hội thánh của
Ngài,
Ngài luôn luôn nhớ đến bực
hèn hạ
chúng ta, cung cấp mọi nhu cầu đầy đủ cho chúng
ta
và giải cứu chúng ta khỏi những cừu địch
mình. Vậy
chúng ta hãy cùng nhau «cảm
tạ
Chúa». Chúng ta hãy đồng
thanh với
Đavít trong Thi thiên 30:12 cùng nhau
nói
với Chúa rằng:
«Hỡi
Giêhôva Đức Chúa Trời tôi,
tôi sẽ cảm tạ Chúa đến đời đời».
Amen.
Đuốc
Thiêng 104
01
Khắc phụng
bản năng - ĐTPÂ
02
Hãy
cảm tạ Chúa -
Mục sư Nguyễn Văn
Bình
03
Thơ: Kỷ
niệm 100 năm Tin Lành Việt Nam - Trần
Nguyên Lam Bửu
04
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (1/4)
- Mục sư Nguyễn Văn Bình
05
Thơ: 100
năm kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
06
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (2/4) - Mục sư Nguyễn Văn
Bình
07
Thơ: Tạ ơn
Chúa 100 năm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
08
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (3/4)
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Người nữ
khôn ngoan
- Bà MS Nguyễn Văn Bình
10
Lịch sử
100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn
Văn Bình
11
Nỗi
lòng người đầy tớ Chúa - Bà
Lê Văn Bắc
12
Một trăm
năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu
Thành
13
Thử
hình dung con tàu Nôê của
những ngày sắp đến
- Dr Trương Hoàng Lâm
14
Tin Tức
- Vinh Bằng
15
Thơ:
Không tiếc, mãi yêu
- Võ Chánh Tiết