Đặc san báo Đuốc
Thiêng - Chủ bút Mục sư Nguyễn Văn Bình
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (2/4) - Mục sư
Nguyễn Văn Bình
Đuốc Thiêng
104, năm 2011
II. Giai
đoạn mở mang khó khăn (1928-1954)
Từ năm 1928 tới năm 1954 là giai đoạn Hội thánh
mở mang
trong hoàn cảnh khó khăn, nhiều giáo
sĩ CMA
và Mục sư Truyền đạo Việt Nam bị bắt bớ tù
đày bởi
chính quyền Pháp cũng như bởi triều
đình Việt Nam,
hoặc vài nơi do sự kỳ thị của Công giáo
La
mã. Đây cũng là thời kỳ Việt
Nam có
nhiều cuộc nổi dậy của các phong trào chống
Pháp
điển hình là đầu năm 1930 Việt Nam Quốc
Dân Đảng do
Nguyễn Thái Học đứng đầu, tổng nổi dậy trên
toàn
Bắc kỳ mưu cướp chính quyền, rồi sự rối loạn
chính trị do
thế chiến thứ 2 (1939-1945) gây ra, tiếp theo là 9
năm
kháng chiến chống Pháp giành độc lập
của mặt trận
Việt Minh (1945-1954) bùng nổ khiến cho nhiều
nhà
thờ bị sập đổ hoặc bị đóng cửa, con cái
Chúa nhiều
khi phải rời làng mạc tản cư đến vùng an ninh
hơn, một số
đầy tớ Chúa bị giết chết trong chức vụ.
A.
Bị bắt bớ
Người Pháp và triều đình Huế căn cứ
vào
khoản 9 của Hòa ước Giáp Tuất (1874)
và được
tái xác nhận trong khoản 13 của Hòa
ước
Giáp Thân (1884) là: «Đức vua
nước An Nam
nhận rằng đạo Giatô dạy người làm điều
lành
nên hủy bỏ hết các chỉ dụ cấm đạo, cho
dân trong
nước được tự do theo đạo và hành đạo...
Dân theo
đạo của nước An Nam sẽ được tụ họp trong các giáo
đường
để hành lễ, số người không hạn chế...
Các
giám mục, linh mục (người Pháp và
người I Pha Nho)
được tự do vào trong nước... Họ được giảng đạo
Giatô ở mọi
nơi, và khi đến, ở, đi, không cần phải khai
báo với
các quan An Nam... Linh mục người An Nam cũng được tự do
truyền
giảng như các giáo sĩ Âu
Châu... Các
giám mục, linh mục người An Nam được quyền mua và
thuê đất, nhà, dựng giáo đường, bệnh
viện, trường
học, nhà nuôi trẻ mồ côi và
mọi kiến
trúc khác dùng về tôn
giáo. Của cải
của dân theo đạo vì việc tôn
giáo mà
bị tịch thu thì sẽ giao trả lại».
(trích Việt Nam
Pháp Thuộc Sử của Phan Khoang, trang 231-232). Căn cứ
vào
điều khoản nầy, người Pháp cũng như triều đình
Việt Nam
chỉ cho giáo hội Công giáo La
mã tự do hoạt
động mà thôi, nên triều đình
Huế ký
chỉ dụ ngày 26-1-1928 như sau: «Theo phần thứ 13
của
Hòa ước năm 1884, chỉ có giáo hội
Công
giáo mới có quyền giảng đạo ở Việt Nam
mà
thôi. Các giám mục, linh mục,
giáo chức
thuộc giáo hội Công giáo La
Mã là
những người duy nhất được giảng dạy. Chúng tôi
được
biết gần đây có một tôn
giáo mới, cũng
như đạo Cao Đài ở miền Nam. Khi những tôn
giáo nầy
bành trướng thêm lên, sẽ có
nhiều người lợi
dụng, tạo các khó khăn trong đất nước
và nhiều
người có thể bị lường gạt như trường họp của Võ
Trụ
và Trần Cao Vân trong năm qua. Những người nầy lợi
dụng
danh nghĩa tôn giáo nhưng sự thật họ chỉ
xúi giục
dân chúng nổi dậy. Biết bao dân
lành
đã chịu khổ vì họ. Vì vậy từ nay
tôn
giáo mới và đạo Cao Đài phải bị cấm
truyền giảng
tại địa phương hay lưu động ở Việt Nam. Nếu ai bất tuân chỉ
dụ
nầy, phải trừng phạt người ấy theo luật định. Quan Khâm sứ
đã đồng ý về vấn đề nầy. Hội Đồng Cơ Mật truyền
chỉ dụ để
quý vị rõ và thi hành.
Huế ngày thứ tư, tháng thứ nhất, năm thứ ba của
Hoàng đế Bảo Đại. Ấn tín của Hội Đồng Cơ
Mật».
Đó là lý do Tin Lành bị bắt
bớ khắp nơi.
Ở Bắc kỳ, sau cuộc cách mạng chống Pháp của
Nguyễn
Thái Học bùng nổ, người Pháp gia tăng
ngăn cấm
các buổi hội họp đông người, nhất là
các
buổi nhóm ban đêm. Họ thi hành chỉ dụ
của Cơ Mật
Viện cấm Hội truyền giáo và Mục sư Truyền đạo
giảng Tin
Lành cho người bản xứ, nên lần kia tại
làng Gia
Thượng, sau khi giảng, Mục sư Lê văn Thái bị một
nhóm người do ông Lý trưởng sai
phái thổi
kèn vang dội, tay cầm dây và gậy gộc
mời đến điếm
canh để nhắc lại lệnh cấm giảng đạo Tin Lành, may
là không có gì
đáng tiếc xảy
ra.
Ở Trung kỳ, các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa
là những
nơi Tin Lành bị bắt bớ nặng nề mà đứng đầu
là quan
Tổng đốc Quảng Nam, ông ra lệnh cho con cái
Chúa
tại Quế Sơn phải dỡ bỏ nhà thờ đang khi họ xây
dựng. Đầu
tháng 5 năm 1928, Mục sư Ông văn Huyên
và
Truyền đạo Đặng Ngọc Cầu tới đảo Lý sơn (cù lao
Ré) phát sách và
làm chứng đạo, bị 3
tháng tù giam. Ở Nha Trang, Mục sư Phan
Đình Liệu
bị kêu án tù 6 tháng giam
trong nhà
lao vì giảng đạo. Tin Lành bị bắt bớ tới tai quốc
Hội
Pháp ở Paris. Chính phủ bị quốc hội chất vấn,
cuối
cùng ngày 5-12-1929, Khâm sứ
Pháp Jabouille
và triều đình Huế do quan Nhiếp Chánh
Tôn
Thất Hân ký chung sắc lệnh thu hồi sắc lệnh
tháng
12 năm 1915 và chỉ dụ của triều đình, trong
đó
có điều khoản: «Các Mục sư Tin
Lành
Pháp không bị hạn chế trong việc thờ phượng
và
truyền Tin Lành... Một giấy phép sơ khởi sẽ được
cấp cho
các Hội truyền giáo ngoại quốc thuộc mọi
tín
ngưỡng, và các hàng giáo
phẩm ngoại quốc
thuộc mọi tín ngưỡng», dù vậy dưới
áp lực
của nhiều phía, sự bắt bớ vẫn thỉnh thoảng xảy ra.
Ở Nam kỳ, những cơn bắt bớ đa số là từ sự kỳ thị
tôn
giáo và lời tuyên truyền đạo bỏ
ông bỏ
bà hoặc đạo ngoại quốc, khiến con cái trong gia
đình rất khó khăn sau khi đã tiếp nhận
Tin
Lành. Nhiều người phải trả giá cho niềm tin của
mình.
B.
Bị chiến tranh
Năm 1939 Thế chiến Thứ hai bùng nổ cho tới năm 1945 mới kết
thúc. Phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh
chiếm khắp
nơi chống lại Liên minh Anh, Pháp, Hoa kỳ. Nhật
chiếm thế
thượng phong ở Viễn đông, trong khi Đức làm
bá chủ
Âu Châu. Ngày 14-6-1940, Paris thất thủ
vào
tay quân Đức, quân Nhật trong phe Trục tiến
vào Việt
Nam áp lực trên quân đội Pháp
đòi hỏi
quyền lợi. Đêm 9-3-1945, Nhật đến Phủ Toàn quyền ở
Sàigòn đưa tối hậu thư đòi
Pháp giao quyền
cai trị Việt Nam cho Nhật, từ đó cả nước Việt Nam ,
quân
Nhật bắt giữ các nhà chức trách văn
võ của
Pháp và tước chính quyền.
Ngày 10-3-1945,
cờ Nhật phất phới từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau. Vua Bảo
Đại
hủy bỏ các hòa ước đã ký
với Pháp
và tuyên bố Việt Nam độc lập trong khối Đại
Đông
Á của Nhật.
Suốt thời gian quân Nhật chiếm đóng Việt Nam,
người Nhật
dùng kinh tế Việt Nam phục vụ cho chiến tranh, lấy
lúa
gạo cung cấp cho quân Nhật trên khắp các
chiến
trường, khiến đời sống người Việt thiếu ăn đói khổ. Ở Bắc kỳ
có khoảng 2 triệu người chết đói, còn
ở Trung
và Nam kỳ không khắm khá gì
hơn, vải sồ,
xăng dầu không cho nhập cảng khiến phải dùng
trái
mù u quấn bông gòn làm rọi
mà đốt,
dân chúng thành phần nghèo,
nhất là ở
thôn quê mặc quần áo khâu bằng
bao bố,
có cảnh hai vợ chồng chỉ có một cái
quần thay nhau
mà mặc. Bìết Nhật sẽ gây khó
dễ với
các giáo sĩ Mỹ, Hội Truyền giáo Trung
ương ở New
York ngày 2-8-1941 kêu gọi các
giáo sĩ ở
Đông dương hoặc về nước hoặc qua lánh nạn ở Phi
luật
tân. Ai ở lại phải tìm cách tự
túc.
Có 68 gia đình giáo sĩ trong số 74 gia
đình
ở Đông dương lúc bấy giờ quyết định ở lại, hậu quả
là tháng 4 năm 1943, tất cả gia đình
giáo
sĩ đều bị Nhật bắt giam ở Mỹ tho. Bên ngoài chỉ
còn
có giáo sĩ Jean Funé mang quốc tịch
Pháp
không bị quản thúc. Hội thánh Tin
Lành Việt
Nam bấy giờ phải hoạt động một mình, hoàn cảnh
khó
khăn vô cùng. Song nhờ ngay từ buổi ban đầu, Hội
thánh được Chúa soi dẫn với đường lối tự đứng
trên
chân mình, tự trị, tự lập, nên
dù hoàn
cảnh nào con cái Chúa vẫn hết
lòng lo cho
các đầy tớ Chúa duy trì Hội
thánh.
Năm 1944, quân Đồng Minh đổ bộ lên Normandie đẩy
lui
quân Đức để giải cứu Pháp, trong khi Nga trực chỉ
tiến
vào Bá Linh, quân Đức đầu
hàng vô điều
kìện ngày 7-5-1945. Riêng Nhật
dù được
kêu gọi đầu hàng, nhưng nhất quyết chiến đấu cho
đến khi
Hoa kỳ dội hai trái bom nguyên tử xuống Quảng Đảo
(Hiroshima) và Trường Kỳ (Nagasaki) mới chịu đầu
hàng
vào ngày 14-8-1945. Thế chiến thứ 2 kết
thúc,
Pháp trở lại tiếp tục đặt nền đô hộ ở Việt Nam,
thế
là Việt Nam phải đối diện với 9 năm
kháng
chiến chống Pháp kéo dài từ
1945-1954
giành độc lập. Bom đạn cày nát
quê hương,
chết chóc khổ đau suốt từ Nam tới Bắc. Nhiều nhà
thờ sụp
đỗ, một số khác đóng cửa vì con
cái
Chúa tản cư, một số Mục sư Truyền đạo bị bắn chết.
Do
các cuộc chiến tranh liên tục xảy ra, Hội
thánh
Chúa bị thiệt hại rất nhiều.
Ở miền Bắc, năm 1940 có 57 nhà thờ, trong số
có 34
Hội thánh tự trị tự lập, nhưng đến năm 1941, có
tới 23
nhà thờ bị đóng cửa. Từ năm 1946-1947, hầu như
90%
nhà thờ bị phá hủy, có lúc
chỉ còn
lại 3 Mục sư quản nhiệm Hội thánh. Nhiều Mục sư Truyền Đạo
bỏ
chức vụ vì đau ốm hoặc quá cực khổ, một số
khá lớn
khác chết trong chức vụ, một số chuyển vào Nam.
Năm 1951,
có 16 nhà thờ nằm trong vùng kiểm
soát của
Việt Minh.
Ở miền Trung, năm 1945 trường Kinh Thánh Đà Nẵng
bị
đóng cửa liên tiếp 3 khóa, sinh
viên một số
phải nhập ngũ. Có lúc cơ sở trường Kinh
thánh bị quân đội Pháp chiếm dụng.
Ông
bà Truyền đạo Lê Thiện Thị và con trai
đầu
lòng bị sát hại khi chiến tranh xảy ra tại Thanh
Quít (huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Năm 1947,
Mục sư
Phan Lang (thân sinh MS Phan Minh Tân)
cùng với 3
nhà lãnh đạo Hội thánh: Cụ Đặng Ngọc
Hồ
(thân sinh MS Đặng Ngọc Cang), Cụ Phan Phụng Chánh
(thân sinh MS Phan Phụng Phục) và Cụ Mã
Phúc
Diên, từ Hội Thánh Phong Thử cầm Kinh
thánh
đi Đà Nẵng thờ phượng Chúa, dọc đường bị phục
kích
bắn chết. Năm 1948, Mục sư Trịnh An Mẹo trên đường từ
Sàigòn đến nhiệm sở truyền giáo ở
Đà Lạt
trên xe bị tấn công và tử nạn. Về
các Hội
thánh, năm 1947, có 16 nhà thờ
và
nhà nguyện bị đóng cửa, đến năm 1951, miền Trung
hầu như
tất cả nhà thờ bị đóng cửa, chỉ còn
lại 8
nhà thờ mà thôi.
Ở miền Nam, ngoài cuộc chiến chống Pháp của Việt
Minh,
còn có các nhóm vũ trang
của các
giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài,
Bình
Xuyên gây trở ngại rất nhiều cho sự phát
triển Hội
thánh. Năm 1946 và năm 1947, có 30
nhà thờ
ở vùng nông thôn bị đóng cửa,
nhiều
nhà thờ khác bị bom đạn hủy phá, tuy
nhiên,
nhiều hội thánh mới được thành lập
thêm. Truyền đạo
Trần Mỹ Bê ở Hội thánh Châu Đốc
và Mục sư
Nguyễn văn Tài ở Ma Lâm (Bình Thuận) bị
giết chết.
Tính đến năm 1953, miền Nam chỉ còn lại 61
nhà
thờ.
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh chết
chóc,
nghèo đói, khá nhiều nhà
thờ bị đóng
cửa hay bị hoang phế vì nằm trong vùng chiến sự,
song Hội
thánh Tin Lành Việt Nam vẫn đứng vững,
không
chùn bước. Tính đến năm 1954, Hội
thánh Tin
Lành Việt Nam trên toàn quốc
có 154 chi hội,
132 Mục sư Truyền Đạo và 44 giáo sĩ của Hội
Truyền
giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA),
có chừng
15.000 tín đồ. Trong thời gian 26 năm nầy (1928-1954), Hội
thánh tổ chức được 17 Hội Đồng Tổng Liên Hội,
ngoại trừ 6
năm (từ 1944-1949) không thể tổ chức vì chiến
tranh khốc
liệt, với các vị Hội Trưởng: MS Dương Nhữ Tiếp (1928-1930),
Mục
sư Trần Xuân Phan (1931-1932), Mục sư Lê
Đình Tươi
(1933-1941), Mục sư Lê văn Thái (1942-1960)
liên
tiếp được Chúa dấy lên lãnh đạo Hội
thánh.
Dù trong giai đọan cực kỳ khó khăn, nhưng Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam trong khoảng thời gian
nầy thực
hiện được các công tác hệ trọng sau
đây:
1. Truyền giáo
cho đồng bào Thượng du
Năm 1929, giáo sĩ A.H Jackson đến Đà Lạt thăm
dò
và khởi sự truyền giáo cho các sắc tộc
vùng
Cao nguyên, trong khi ở Bắc Việt, Mục sư Lê văn
Thái
chú ý đến công tác truyền
giáo cho
các sắc tộc thiểu số ở miền Bắc. Năm 1931, giáo
sĩ C.E
Travis đến Phan Rang truyền giáo cho người Chàm.
Năm
1934, giáo sĩ P.E Carlson đến Xuân Lộc truyền
giáo
cho người Chru, trong khi Giáo sĩ G.H Smith đến truyền
giáo cho người Rađê (Êđê) ở
Ban Mê
Thuộc, MS Trịnh An Mẹo đến Đà Lạt. Năm 1935, Mục sư
Ngô
văn Lái đến Khe Sanh truyền giáo cho người Bru.
Năm 1940,
TĐ Lê Khắc Cung tới truyền giáo cho người
M’Nông, TĐ Kiều Toản giảng cho người Katu ở Quảng
Nam,
và cùng năm nầy ở miền Bắc, Hội thánh
đem Tin
Lành đến cho người Dao ở Bắc Sơn (Lạng sơn). Năm 1941, Mục
sư
Phạm Xuân Tín đến truyền giáo cho người
Jơrai
và Bahnar ở Pleiku, và năm 1952 thì
đến Đơn Dương
truyền giáo cho người Chru. Năm 1941, Mục sư Phạm văn Năm
đến
Đà Lạt truyền giáo cho người Kơho, trước
đó
đã có Mục sư Nguyễn văn Tầm đến
đây truyền
giáo rồi. Năm 1942, Mục sư Bùi Tấn Lộc đến truyền
giáo cho người Bru ở Khe Sanh. Năm 1951, MS Chung
Khâm Lộc
đến Di Linh truyền giáo cho người dân tộc
Sơrê. Mục
sư Trương văn Tốt (1952) đến Fi Yan (La Ba) cho sắc tộc Riôn.
Mục
sư Trương văn Sáng đến Pleiku cho người Jơrai và
Bahnar.
Mục sư Đặng văn Sung đến Ban Mê thuộc phụ tá
truyền
giáo với Mục sư Nguyễn Hậu Nhương giảng Tin Lành
cho
người Rađê, đến năm 1953, Mục sư Đặng văn Sung tới
Bình
Long truyền giáo cho người Stiêng, TĐ Phan văn
Xuyến tới
Di Linh giảng cho người Mạ. Năm 1954, còn có Mục
sư Phạm
Xuân Hiển đến Đà Lạt học tiếng Kơho. Năm 1949,
trong buổi
họp tại Ban Mê Thuộc, Ban Bào Ngoại Bố Đạo
Đoàn đổi
thành «Đoàn Truyền Giáo Tin
Lành Việt
Nam» do Mục sư Phạm Xuân Tín
làm trưởng
đoàn. Công tác truyền giáo
làm nức
lòng con cái Chúa, hàng
ngàn người
sắc tộc đủ mọi chi phái từ bỏ bùa chú,
mê
tín dị đoan trở về tin Chúa, nhiều Hội
thánh được
thành lập, về sau trở thành một địa hạt thuộc Hội
thánh Tin Lành Việt Nam vào năm 1951
với
tên: Thượng Hạt, do Mục sư Hà Sol làm
Chủ nhiệm.
2. Phân chia
Địa Hạt
Năm 1931, Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 8, họp ở
Hà
Nội biểu quyết phân chia Hội thánh toàn
quốc
thành 3 địa Hạt: Bắc Hạt từ Bắc vào đến Thanh
Hóa.
Trung Hạt từ Vinh đến Ninh Thuận, và Nam hạt từ
Bình
Thuận đến Cà Mau. Đến năm 1951, có thêm
Địa Hạt
Thượng Du nữa, về sau được gọi là Thượng Hạt, tổng cộng
có 4 địa hạt. Mỗi hạt có một vị Chủ Nhiệm đứng
đầu
cùng một Ban Trị Sự điều hành và
lãnh đạo
công việc Chúa, mỗi năm đều có Hội Đồng
Địa Hạt
nghe giảng bồi linh và bàn luận công
việc
Chúa cùng bầu bán phần Ban Trị Sự Địa
Hạt.
Tính đến năm 1950, Nam Hạt có 7759 tín
đồ, Trung
Hạt tính đến năm 1951 có 3257 tín đồ,
sinh hoạt
trong 33 Hội thánh, trong khi 7 Hội thánh vẫn
còn
bị đóng cửa. Bắc Hạt tính đến năm 1951,
có 1110
tín đồ nhận báp têm trong 12 Hội
thánh
chánh và 7 Hội thánh nhánh.
Thượng Hạt
tính đến năm 1954, thành lập được 70 Hội
thánh,
có 47 Mục sư Truyền đạo và khoảng 6000
tín đồ.
3. Thành lập
Ban Chứng Đạo
Từ ngày 28-5 đến ngày 3-6 năm 1938, Hội Đồng Tổng
Liên Hội lần thứ 16 tổ chức tại Vĩnh Long, dười sự chủ tọa
của
Mục sư Hội Trưởng Lê Đình Tươi, đã mời
tiến sĩ Tống
Thượng Tiết từ Trung Hoa đến giảng bồi linh, đã đem lại một
cơn
phấn hưng lớn cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Mọi người
tham dự được Chúa thăm viếng đặc biệt, mọi tấm
lòng tan
vỡ ăn năn thống hối, nhất tề đứng lên theo lời kêu
gọi phất
cờ chứng đạo ra đi khắp nơi giảng Tin Lành, làm
chứng
nhân cho Chúa. Hàng trăm Hội
thánh sau Hội
đồng thành lập Ban chứng đạo, Tổng Liên Hội cũng
lập Tổng
Trưởng Ban Chứng Đạo nhằm chỉ đạo, khuyến khích con
cái
Chúa nổ lực giảng Tin Lành. Từ Hội Đồng lịch sử
nầy,
tiếng kêu gọi truyền giáo cho miền Thượng Du
đã
được đáp ứng mạnh mẽ, nhiều Mục sư Truyền Đạo đứng
lên
dâng mình đi truyền giáo.
4. Các hoạt
động khác
Cũng trong giai đoạn khó khăn nầy, Hội thánh Tin
Lành Việt Nam được Chúa ban phước, bàn
tay của
Chúa đỡ nâng và dẫn dắt Hội
thánh được kiện
toàn về mặt tổ chức và mở mang trong nhiều
lãnh
vực khác nhau, góp phần cho sự phát
triển đa diện
của Hội thánh. Năm 1936, Bản Điều Lệ 1928 được tu
chính,
năm 1941 Toàn quyền Đông Dương
Decoux cấp tư
cách pháp nhân cho Hội
thánh, kể từ
đây, Hội thánh được chính thức
công nhận
là một tổ chức tôn giáo có
quyền tự do
truyền bá Tin Lành. Niềm vui mừng phấn khởi
tràn
ngập lòng con dân Chúa. Năm
1947, trường Kinh
thánh Ban Mê Thuộc dành cho người sắc
tộc được
xây dựng do giáo sĩ G.H Smith phụ
trách, năm sau,
năm 1948, trường Kinh thánh Đà Nẵng được mở cửa
trở lại,
do Mục sư Ông văn Huyên làm đốc học
đào tạo
Mục sư Truyền đạo cung ứng cho cánh đồng truyền
giáo rộng
lớn đang đối diện với chiến tranh, nghèo khổ và
chết
chóc. Năm 1949, trường Kinh thánh dành
cho người
sắc tộc được mở ở Đà Lạt do giáo sĩ H.A Jackson
điều
hành. Năm 1950, Hội thánh chính thức
được đổi
tên từ Hội Tin Lành Đông Pháp
thành
Hội thánh Tin Lành Việt Nam, cũng năm nầy, một
quyển
Thánh ca gồm 455 bài hát có
khung nhạc với
âm vận lời hát hoàn chỉnh
cùng bài
đọc Kinh thánh đối đáp cặp theo được xuất bản
thay thế
quyển Thơ Thánh dùng cho con cái
Chúa
tôn vinh Ngài trong các buổi thờ phượng
của Hội
thánh. Ngoài ra, Hội thánh
còn có
bài học Trường Chúa Nhựt cho con cái
Chúa
học lời Chúa mỗi tuần, Hội thánh có tờ
Thánh Kinh Báo vừa dưỡng linh vừa có
tin tức để
con cái Chúa đọc hàng
tháng. Có
đoàn thanh niên lo cho giới trẻ. Ở miền Nam, Hội
thánh còn có xe lưu hành
truyền giảng do
Mục sư Bùi Tự Do điều hành và một
tàu Tin
Lành do Mục sư Huỳnh văn Ngà đi khắp
các
giòng sông giảng đạo nhờ vậy mà nhiều
Hội
thánh ở miền quê sông nước được
thành lập.
Năm 1951, Hội thánh khởi sự giảng Tin Lành qua hệ
thống
truyền thanh phát đi từ Manila (Phi luật tân) cho
đồng
bào tại Việt Nam, đồng thời góp phần
công
tác văn hóa xã hội bằng
cách xây dựng
một bệnh viện bài cùi ở Ban Mê Thuộc
(1951),
và một Cô Nhi Viện cùng một Trường
Trung Tiểu học
Tin Lành ở Nha Trang (1953).
Nhìn chung, dù trong giai đoạn khó
khăn, bị bắt
bớ, bị nghi kỵ, bị chiến tranh tàn phá
không ngừng,
bị nghèo khổ cùng cực, song le, trong
vòng 26 năm
kể từ năm 1928 đến năm 1954, số tín đồ Hội thánh
Tin
Lành Việt Nam không bị sút giảm,
trái lại
tăng lên gấp 3, công cuộc truyền giáo mở
rộng từ
thành thị tới thôn quê bằng nhiều phương
tiện, cả
đường bộ lẫn đường thủy, nhiều Hội thánh mới được
thành
lập thêm, nền hành chánh của Hội
thánh được
kiện toàn, nhiều Hội thánh tự trị tự lập về cả
mặt tổ
chức, điều hành lẫn tài chánh.
Dù Hội
thánh mở mang trong khó khăn nhưng kết quả rất
lớn,
đúng như lời Chúa đã nói
trước: «Kẻ
nào gieo giống mà giọt lệ, sẽ gặt hái
cách
vui mừng. Người nào vừa đi vừa khóc đem giống ra
rải, ắt
sẽ trở về cách vui mừng, mang bó lúa
mình» (Thi thiên 126:5-6).
Đuốc
Thiêng 104
01
Khắc phụng
bản năng - ĐTPÂ
02
Hãy
cảm tạ Chúa -
Mục sư Nguyễn Văn
Bình
03
Thơ: Kỷ
niệm 100 năm Tin Lành Việt Nam - Trần
Nguyên Lam Bửu
04
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (1/4) - Mục sư Nguyễn Văn
Bình
05
Thơ: 100
năm kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
06
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (2/4)
- Mục sư Nguyễn Văn Bình
07
Thơ: Tạ ơn
Chúa 100 năm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
08
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (3/4)
- Mục sư Trần Hữu Thành
09
Người nữ
khôn ngoan
- Bà MS Nguyễn Văn Bình
10
Lịch sử
100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn
Văn Bình
11
Nỗi
lòng người đầy tớ Chúa - Bà
Lê Văn Bắc
12
Một trăm
năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu
Thành
13
Thử
hình dung con tàu Nôê của
những ngày sắp đến
- Dr Trương Hoàng Lâm
14
Tin Tức
- Vinh Bằng
15
Thơ:
Không tiếc, mãi yêu
- Võ Chánh Tiết