Đặc san báo Đuốc
Thiêng - Chủ bút Mục sư Nguyễn Văn Bình
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (3/4) - Mục sư
Nguyễn Văn Bình
Đuốc Thiêng
104, năm 2011
III.
Giai đoạn tăng trưởng (1954-1975)
Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 là giai đọan tăng trưởng
của
Hội thánh Miền Nam. Năm 1954, quân Pháp
thất trận
tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng quân
kháng
chiến Việt Nam. Ngày 20-7-1954, hiệp định Genève
ký kết tại Thụy sĩ giữa Pháp và Việt
Minh
phân chia Việt Nam thành hai miền Nam Bắc với hai
thể chế
khác nhau, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, chiếc
cầu Bến
Hải trở thành chiếc cầu ngăn đôi hai miền đất
nước. Miền
Bắc từ tỉnh Quảng Bình trở ra, theo chế độ Xã Hội
Chủ
Nghĩa, còn Miền Nam từ tỉnh Quảng Trị trở vào,
theo
chính thể Cộng Hòa. Có gần 1 triệu
người từ Miền
Bắc di cư vào Nam, gồm có 676.348 người
Công
giáo, 182.817 người Phật giáo, còn Tin
Lành
chỉ có 1041 người, trong số có gần 10 Mục sư
Truyền đạo.
Hội thánh Tin Lành Việt Nam kể từ thời điểm nầy
cũng bị
chia ra làm hai. Hội thánh Tin Lành
Miền Bắc, sau
đổi thành Tổng Hội Tin Lành Miền Bắc
và Hội
thánh Tin Lành Miền Nam được gọi là
Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam như tên của Hội
thánh chung từ trước tới nay.
A.
Hội thánh Miền Bắc
Sau hiệp định Genève, một số tín hữu Tin
Lành di cư vào Miền Nam, Hội
thánh Tin
Lành Miền Bắc chỉ còn khoảng 3 Mục sư, 12 Truyền
đạo
trông coi 13 Hội thánh với số tín đồ
trên
dưới 1000 người dưới sự trông coi và điều
hành của
Mục sư Dương Tự Ấp, Chủ Nhiệm Bắc Hạt. Đến năm 1958, Hội
Thánh
tổ chức Đại Hội Đồng, đổi tên chính thức
là Hội
thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc, phong chức cho
9 truyền
đạo và đến Đại Hội Đồng lần thứ 8 họp tại Hà Nội
từ
ngày 13-15 tháng 3 năm 1962, bản điều lệ
dành
riêng cho Hội thánh Tin Lành Miền Bắc
được Đại Hội
thông qua gồm có 20 phần, 49 điều với hệ thống tổ
chức gồm
Tổng Hội và Chi Hội (không có Địa Hạt)
cùng
với Bản Tin Kính của Hội thánh. Mục sư Dương Tự
Ấp giữ
chức Tổng Hội trưởng cho đến năm 1966, tiếp theo là Mục sư
Hoàng Kim Phúc (1966-2001). Cùng năm
nầy,
chính quyền Miền Bắc cho phép Hội
thánh mở Trường
Kinh thánh ở Hà Nội đào tạo người hầu
việc
Chúa. Khóa học kéo dài
trong 2 năm
(1962-1964), mỗi năm chỉ học có 3 hoặc 4 tháng
mà
thôi, do Mục sư Lê Khắc Lưu và Mục sư
Bùi
Hoành Thử giảng huấn. Số học viên theo học chỉ
có
10 người mà trong số đó có 2 nữ
và suốt từ
1954 đến 1975 chỉ có một khóa học duy nhất
đó
mà thôi.
Hội thánh Tin Lành Miền Bắc theo đường hướng
«Sống
Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa,
phục vụ tổ quốc
và dân tộc» cho nên
các Mục sư Truyền
đạo cũng phải tham gia chính trị và thi
hành bổn
phận yêu nước. Do đó, ta thấy Mục sư Hội trưởng
Dương Tự
Ấp cũng như Mục sư Hội trưởng Hoàng Kim Phúc
và
sau nầy Mục sư Bùi Hoành Thử (quyền Hội
trưởng) vừa
là Hội trưởng của Hội thánh mà cũng
vừa là
đại biểu quốc hội và có tên hội
viên
trong Mặt trận tổ quốc nhà nước. Cũng
có nhiều
Truyền đạo sau khi tốt nghiệp trường Kinh thánh phải đi nhập
ngũ
cung cấp cho chiến trường Miền Nam, trong số có Truyền đạo
Âu Trọng Cù bị chết trong chiến tranh.
Nhìn chung, giai đoạn 1954-1975, Hội thánh Tin
Lành Miền Bắc rất èo uột, không tăng
trưởng được.
Mọi công tác truyền giáo hầu như bị
đình
chỉ, nếu có thì chỉ hạn hẹp trong nhà
thờ
không thể truyền giảng hay làm chứng đạo
bên
ngoài nhà thờ được. Theo báo
cáo của Ban
Tôn Giáo các tỉnh, thì
tính đến năm
2000, toàn Miền Bắc chỉ có 14 chi hội, 4 Mục sư,
10
truyền đạo, số tín đồ vào khoảng 6.370 người, nếu
tính lui lại 5 năm về trước, tức vào thời điểm
năm 1975,
số tín đồ có lẽ chỉ chừng 5.000 người, trong
khoảng thời
gian 21 năm (1954-1975), thật là một con số quá
ít
ỏi.
B.
Hội thánh Miền Nam
Trong khi Hội thánh Miền Bắc tăng trưởng rất chậm,
thì
Hội thánh Tin Lành Miền Nam trong khoảng thời
gian từ
1954-1975 lại tăng trưởng rất nhanh, dù phải đối diện với
cuộc
chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử bởi súng
đạn tối
tân từ hai phía. Sau hiệp định Genève,
đất nước
thanh bình được chừng 6 năm, thì tiếp theo sau
đó,
suốt 15 năm, chiến tranh bùng nổ. Từ Quảng Trị tới
Cà
Mau, từ thành thị tới thôn quê,
đâu đâu
bom đạn cũng ầm vang ngày đêm không
ngừng cày
nát quê hương. Chết chóc tang thương
diễn ra hằng
ngày. Thảm hại nhất là Tết Mậu Thân
(1968)
và Mùa Hè Đỏ Lửa ở An Lộc,
Bình Long, Phước
Long và Quảng Trị (1972). Dù Hiệp định Paris
27-1-1973
ký kết đình chiến, nhưng chiến tranh lại diễn ra
còn ác liệt hơn trước. Suốt thời kỳ chiến tranh
nhiều
nhà thờ bị sụp đổ, một số Mục sư Truyền đạo bị chết, con
cái Chúa nhà tan cửa nát,
chết chóc
rất nhiều, số còn lại phải tản cư khỏi ruộng đất,
nhà cửa của mình tới thành phố hoặc
nơi an
toàn hơn. Tính đến năm 1975, có khoảng
3 triệu
người chết do thảm cảnh chiến tranh gây ra gồm cả
quân
lính hai bên và thường
dân, trong số
có Mục sư Chung Khâm Lộc, TĐ Đoàn văn
Sua, TĐ
Nguyễn Hoàng Sinh, TĐ Phạm Hữu Tồn, Bà Mục sư
Đặng văn
Diệp. Tết Mậu Thân năm 1968 ở Ban mê thuột lại
có 6
giáo sĩ của Hội Truyền giáo Phước Âm
Liên
Hiệp (CMA): Giáo sĩ Ziemer, Ông bà
giáo sĩ
Thompson, cô Willting, cô Grisword và
cô Olsen
bị bắn chết tại cơ sở truyền giáo, và 3
giáo sĩ
khác là ông Michel, cô
bác sĩ Vietti
và ông Mike Benge bị bắt đi biệt tích,
còn
bà giáo sĩ Ziemer thì bị thương rất
trầm
trọng. Cuối năm 1974, Mục sư Đặng văn Sung, truyền
giáo
cho người Stiêng cũng bị bắt đi biệt tích. Quả
là
một thời kỳ kinh hoàng khủng khiếp. Song máu của
những
người tử đạo vì danh Chúa Giê Xu chắc
chắn sẽ tưới
nhuần cánh đồng truyền giáo, không
lâu đồng
ruộng sẽ đơm hoa kết trái.
Dù trong thời kỳ chiến tranh khói lửa
tàn khốc,
thế nhưng, công cuộc truyền giáo mở mang Hội
thánh
tại Miền Nam lại được tự do hơn bao giờ hết kể từ khi Hội
thánh
được thành lập. Sáu năm đầu kể từ năm 1954, tận
dụng đất
nước thanh bình, Hội thánh nỗ lực cứu trợ đồng
bào
Miền Bắc di cư, thiết lập các Hội thánh thuộc khu
dinh
điền, các vùng khai hoang lập ấp. Hàng
chục
nhà thờ được dựng lên tại các khu vực
đó.
Liên tục các năm sau, các
nhà truyền
giáo Việt Nam và giáo sĩ CMA đẩy mạnh
công
tác truyền giáo cho các sắc tộc miền
Cao
nguyên, thành lập Ủy Ban Truyền Giáo
Trung Ương yểm
trợ các nhà truyền giáo, thu gặt nhiều
thành quả đáng kể. Các Mục sư truyền
giáo
mới lần lượt được cử đến Tây nguyên : Mục sư Nguyễn
Quang
Thuận, MS Nguyễn Đình Chương đến Phước Đức lo cho người
Rơlai,
Mục sư Hồ Hiếu Hạ đến Daksong, Quảng Đức, lo cho người
M’Nông, Mục sư Lê văn Tôi, Mục
sư Huỳnh văn
Kiểm và Mục sư Tạ Xù đến Phước Đồng truyền
giáo
cho người Chàm. Mục sư Samuel Ông Hiền đến Đơn
dương lo
cho người Chru. Mục sư Nguyễn Anh Tài, MS Trần văn
Sang
đến vùng Đà lạt, Di Linh, Bảo lộc lo cho
các sắc
tộc Kơho, Chil, Sơrê, Mạ, Trinh, Rơlai. Truyền
giáo Đặng
Phước Thành lo cho người Stiêng ở Phước long.
Truyền
giáo Lê Thế Đinh đến Khe sanh lo cho người Bru,
Mục sư
Nguyễn Hậu Lương đến Túc trưng lo cho sắc tộc Chrau, sắc tộc
mà trước đây Mục sư Lê văn Trầm đến
Xuân Lộc
truyền giáo. Ủy ban Truyền giáo Trung ương
còn cử
Mục sư Nguyễn Hậu Nhương đến Vientiane truyền giáo cho người
Thái Đen ở Lào (1961), đến năm 1974
thì Mục sư
Nguyễn văn Bình đến thay thế.
Năm 1967, Hội thánh Tin Lành Việt Nam
thành lập Ủy
Ban Truyền Đạo Sâu Rộng nhằm huấn luyện và khuyến
khích các Hội thánh địa phương
và con
dân Chúa đi làm chứng nhân
cho Chúa
với khẩu hiệu «Tất cả cho người chưa được cứu» với
mục
tiêu đem10 triệu người trở về với sự cứu rỗi của
Chúa
mà Mục sư Hội trưởng Đoàn văn Miêng đề
ra.
Các Địa Hạt như Trung Hạt, Đông Nam Hạt,
Tây Nam Hạt
mỗi nơi đều có Xe Lưu Hành trang bị loa
phóng
thanh đi khắp chợ búa, dựng tòa giảng
trên mui xe
ca hát và truyền giảng Tin Lành cho
đồng
bào. Các phòng thông tin của
các
tỉnh, các quận cũng cho phép Hội thánh
địa phương
giảng đạo ít nhất mỗi tuần một lần cho đồng bào
qua lại
vào buổi tối. Đài phát thanh Manila
vẫn liên
tục phát thanh về Việt Nam, trong khi Hội thánh
tại Việt
Nam cũng được các đài phát thanh của
các
địa phương cho phép giảng đạo mỗi tuần nửa giờ hoặc 1 đến 2
giờ.
Ngoài đài phát thanh Sài
gòn
và đài quân đội, còn
có các
đài địa phương khác như : Tân an, Mỹ
tho, Kiến
hòa, Ba xuyên, Đà lạt, Nha trang, Qui
nhơn, Quảng
ngãi, Tuy hòa, Ban mê thuột,
Đông hà,
Huế, Hội an v.v... Sau nầy còn có giảng đạo
trên
đài truyền hình nữa. Từ năm 1955,
chính phủ
còn cho phép Hội thánh
thành lập
Đoàn Tuyên Úy chăm sóc
tín hữu Tin
Lành trong quân ngũ khắp bốn vùng chiến
thuật, đồng
thời truyền bá Phúc âm cho
quân nhân
thuộc mọi thành phần khác nhau trong
quân đội. Hội
thánh cũng thành lập Đoàn sinh
viên Tin
Lành (1959) và cùng năm ấy, Hội
thánh mở
một trung tâm thanh niên ở
Sàigòn,
giúp đỡ các sinh viên và
thanh niên
hiểu biết về Chúa. Thánh Kinh Hội cử
nhân
viên đi khắp các vùng đất nước
bán những
sách Tin Lành với giá rẽ để đồng
bào tiếp
cận với lời Chúa. Tổ chức Truyền giảng Tin Lành
cho mỗi
gia đình (CTG) cử hằng trăm nhân viên
được cấp lương
bổng chỉ đi phân phát truyền đạo đơn cho mỗi gia
đình trong nước và làm chứng cho đồng
bào
từ Quảng Trị tới Cà Mau, trong khi Ủy Ban Cứu Tế
Xã Hội
ủy lạo và phát sách chứng đạo thường
xuyên
cho đồng bào tản cư. Tổng Đoàn Thanh
Niên Cơ Đốc
Xã Hội do các thanh niên trẻ đầy nhiệt
huyết vận
đồng tài chính và áo quần,
thuốc men, đồ ăn
khắp nơi trên thế giới góp phần cứu trợ cho
các
nhân nạn thiên tai bão lụt và
nạn nhân
chiến tranh. Một số khác đi vào thăm hỏi, an ủi
và
nói về Chúa cho các bệnh
nhân tại các
bệnh viện cũng như Quân y viện. Hội thánh
còn
thành lập Chẩn y viện ở Nha Trang và Pleiku
(1960)
khám bệnh và phát thuốc cho đồng
bào.
Ngoài ra, các Hội thánh địa phương
còn được
phép đến giảng Tin Lành cho những tù
nhân
trong các trung tâm cải huấn ở các tỉnh
thành.
Hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision) bắt đầu từ thập
niên 60, giúp Hội thánh Việt Nam mở 90
trường Trung
Tiểu Học, có 800 giáo viên
và 90 nhân
viên đảm trách 800 lớp học với số học sinh chừng
khoảng
30.000, mỗi lớp đều có giờ giáo
lý dạy đạo
cho học sinh. Ngoài ra Hội thánh còn
có
Tổng Đoàn Thanh Niên toàn quốc
và
Đoàn Thanh Niên ở các Địa Hạt lo cho
thanh
niên và cũng có Ủy Ban Truyền Đạo cho
Thiều nhi
nữa. Hội thánh còn có tờ
Thánh Kinh
Báo (1931) sau nầy đổi thành
Thánh Kinh
Nguyệt San cung cấp tin tức và những bài dưỡng
linh
hàng tháng cho tín đồ và tờ
Hừng
Đông, sau nầy đổi thành Rạng Đông nhằm
truyền
giáo cho người chưa biết Chúa. Trường Kinh
thánh
Đà Nẵng tiếp tục vai trò đào tạo
và huấn
luyện người hầu việc Chúa. Năm 1954 chỉ có 30
sinh
viên theo học, nhưng năm 1955 lên đến 82, đến năm
1958 tăng
lên đến 100, vì vậy trường trở thành
chật hẹp,
nên năm 1960, trường được thiên di vào
Nha Trang,
đổi tên thành Thánh Kinh Thần Học Viện
do Mục sư
Ông văn Huyên làm Viện trưởng. Cơ sở mới
đầy đủ tiện
nghi cho 200 sinh viên nội trú, ăn ở và
theo học.
Ngoài ra, ở các Địa Hạt hằng năm còn
mở
khóa Tiểu Học Đường dạy Kinh thánh cho con
cái
Chúa. Các Hội đồng Tổng Liên Hội
và
các Hội đồng Địa Hạt hằng năm đều được tổ chức đều đặn, vừa
bồi
linh, vừa kiện toàn hành
chánh vừa chỉ đạo
việc mở mang bờ cõi nước Chúa. Năm 1970, Hội
thánh
mở nhà in Tin Lành tại Sài
gòn in
sách báo của Hội thánh giúp
cho sự
gây dựng đức tin tín đồ và phổ biến Tin
Lành
rộng rãi hơn.
Nhờ những sinh hoạt năng động như thế, cho nên dù
trong
giai đoạn chiến tranh tàn khốc diễn ra, Hội thánh
Tin
Lành Việt Nam lại tăng trưởng cách lạ
lùng. Trước
năm 1954, số tín đồ chỉ vào khoảng 15.000 người,
nhưng 21
năm sau, vào thời điểm của năm 1975, Hội thánh
Tin
Lành Việt Nam có khoảng 146.089 tín
đồ, tăng gần
gấp 10 lần, gồm có 530 chi hội, 190 Mục sư, 167 Truyền đạo
và 155 Truyền đạo sinh. Tổng cộng người hầu việc
Chúa
lên tới 512 người. Riêng tại vùng Cao
nguyên,
số tín đồ các sắc tộc lên đến con số
57.768 người,
với 216 chi hội và 183 Mục sư, Truyền đạo, Truyền đạo sinh.
Các Địa Hạt không thể kham nổi trong việc thăm
viếng, điều
hành với sự tăng trưởng như thế, nên từ 3 Địa hạt:
Trung
Hạt, Nam Hạt, Thượng Hạt, mỗi hạt được Hội đồng Tổng Liên Hội
chấp thuận chia làm 2 hoặc nhiều hơn. Trung Hạt năm 1962
chia ra
Bắc Trung Hạt và Nam Trung Hạt. Năm 1969, Nam Hạt khởi đầu
chia
ra Đông Nam Hạt và Tây Nam Hạt. Về sau,
năm 1973
Tây Nam Hạt lại chia thành Địa Hạt Tiền Giang
và
Địa Hạt Hậu Giang. Năm 1969, Thượng Hạt cũng chia ra làm 2:
Trung Thượng Hạt và Nam Thượng Hạt. Như vậy, Hội
thánh
Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) từ 3 địa hạt trước năm 1954 tới
năm
1975 có 7 địa hạt tất cả, dưới sự lãnh đạo của
hai vị Hội
trưởng đầy ơn: Mục sư Lê văn Thái (1942-1960)
và
Mục sư Đoàn văn Miêng (1960-1975).
Ngoài Hội thánh Tin Lành Việt Nam ra,
trong giai
đoạn nầy, tại Việt Nam cũng có một số hệ phái
khác
đến truyền giáo, mở mang Hội thánh,
thành lập
các cơ sở từ thiện, tính đến năm 1975: Hội
Mennonite, đến
Việt Nam bắt đầu năm 1954, chỉ có hai cơ sở ở Sài
gòn và Cần thơ với số tín hữu khoảng
500 người. Cơ
Đốc Truyền Giáo Hội do giáo sĩ G.H Smith
thành lập
năm 1956 chủ yếu hoạt động ở Đà Nẵng cùng
các sắc
tộc Cao nguyên, có 35 chi hội, trong số
có 17 chi
hội người sắc tộc, tổng cộng có16.350 tín đồ. Hệ
phái Báp Tít Nam Phương, bắt đầu hoạt
động từ năm
1959, có 16 chi hội và khoảng 10.000
tín đồ. Hội
Thánh Đấng Christ (Church of Christ) bắt đầu hoạt động năm
1963,
có 500 tín đồ và 3 cơ sở từ thiện. Hệ
phái
Ngũ Tuần khởi sự từ năm 1970 ở Sài gòn
và Vũng
Tàu, có được 500 tín đồ.
Riêng Cơ Đốc Phục
Lâm giảng đạo ở Việt Nam từ năm 1930, có 42 chi
hội với số
tín hữu khoảng 30.000 người.
Như vậy tổng cộng số tín hữu Tin Lành cả Miền Bắc
lẫn
Miền Nam cùng các hệ phái,
tính đến năm
1975, có tất cả gần 210.000 người.
Đuốc
Thiêng 104
01
Khắc phụng
bản năng - ĐTPÂ
02
Hãy
cảm tạ Chúa -
Mục sư Nguyễn Văn
Bình
03
Thơ: Kỷ
niệm 100 năm Tin Lành Việt Nam - Trần
Nguyên Lam Bửu
04
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (1/4) - Mục sư Nguyễn Văn
Bình
05
Thơ: 100
năm kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
06
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (2/4)
- Mục sư Trần Hữu Thành
07
Thơ: Tạ ơn
Chúa 100 năm Tin Lành đến Việt Nam
- Đức Huy
08
Lịch sử 100
năm Tin Lành Việt Nam (3/4)
- Mục sư Nguyễn Văn Bình
09
Người nữ
khôn ngoan
- Bà MS Nguyễn Văn Bình
10
Lịch sử
100 năm Tin Lành Việt Nam (4/4) - Mục sư Nguyễn
Văn Bình
11
Nỗi
lòng người đầy tớ Chúa - Bà
Lê Văn Bắc
12
Một trăm
năm Tin Lành đến Việt Nam - Mục sư Trần Hữu
Thành
13
Thử
hình dung con tàu Nôê của
những ngày sắp đến
- Dr Trương Hoàng Lâm
14
Tin Tức
- Vinh Bằng
15
Thơ:
Không tiếc, mãi yêu
- Võ Chánh Tiết